Cập nhật lần cuối vào 14/10/2023
Mục lục
Trường hợp
Một phụ nữ 28 tuổi bị chấn thương sọ não do tai nạn giao thông đường bộ khi cô đang đi bộ và bị va chạm trực diện lên đầu. Cô bất tỉnh trong vài phút. Thời gian mất trí nhớ sau chấn thương là bốn ngày. Cô không bị động kinh sau tai nạn và kết quả chụp CT không thấy có gì bất thường.
Sáu tuần sau tai nạn, bệnh nhân gặp nhiều triệu chứng và vấn đề. Cô phàn nàn về trí nhớ ngắn hạn rất kém và khoảng chú ý ngắn. Cô cũng cảm thấy rất khó tập trung vào các nhiệm vụ như việc nhà. Có một số triệu chứng về thể chất, chẳng hạn như thỉnh thoảng nhức đầu, chóng mặt và rối loạn thị giác. Bệnh nhân mô tả rối loạn thị giác này là một cảm giác kỳ lạ như là ánh sáng quá chói và những đồ vật mà cô nhìn trông có vẻ lạ lẫm và có hình dạng lạ kỳ. Bệnh nhân cũng gặp một số vấn đề về điều hợp ở thân mình và thỉnh thoảng cảm thấy buồn nôn hoặc như say rượu. Cô mô tả dáng đi của mình không vững và hai chân như thể “run lẩy bẩy‘ hoặc như đang đi trên tấm nệm. Cô ấy nói rằng hai tay của cô ấy cũng bị ảnh hưởng với cảm giác rằng “chúng không hợp với cơ thể của tôi “. Khám thần kinh hoàn toàn bình thường.
Bệnh nhân lo ngại là chấn thương đầu của mình rất nặng, dẫn đến các vấn đề phức tạp về thể chất và nhận thức khiến trở lại làm việc có thể rất khó khăn. Cô mong được giải thích và tiên lượng.
Bình luận
Các vấn đề sức khỏe tâm thần rất thường gặp sau chấn thương sọ não. Trầm cảm là một vấn đề nổi bật đã thu hút được sự quan tâm đáng kể từ các nhà lâm sàng. Trầm cảm có thể ảnh hưởng 15 đến 45% bệnh nhân sau chấn thương sọ não và thường có kết quả (tiên lượng) xấu hơn. Một khó khăn lớn là sự chồng chéo giữa các triệu chứng nhận thức của trầm cảm và các di chứng thường gặp của chấn thương sọ não như hội chứng sau chấn động não. Triệu chứng thể chất chính của trầm cảm là đau, thường biểu hiện với nhức đầu, đau thắt lưng hoặc đau nhức toàn thân không đặc hiệu.
Các rối loạn lo âu
Lo âu cũng có thể ảnh hưởng đến một số lượng đáng kể bệnh nhân sau chấn thương sọ não. Các tài liệu cho thấy tỷ lệ mắc các rối loạn lo âu sau chấn thương đầu từ 10–20%. Rối loạn căng thẳng sau chấn thương (Post-traumatic stress disorder , PTSD) theo điển hình là dạng rối loạn lo âu có mối liên hệ rõ nhất, đặc biệt là chấn thương đầu càng nhẹ thì PTSD càng phổ biến. Việc xác định bệnh nhân bị PTSD thường đơn giản, như bệnh nhân than phiền gặp những hồi ức, ác mộng về vụ việc (nghĩa là tai nạn, ND) hoặc né tránh các khía cạnh của vụ việc, bao gồm cả các nơi chốn hoặc con người.
Các rối loạn lo âu thường gặp khác là rối loạn hoảng sợ và rối loạn lo âu toàn thể/lan toả. Hai rối loạn có thể xuất hiện với sự kết hợp của các triệu chứng nhận thức, tâm trạng và / hoặc thể chất. Bệnh nhân hiếm khi tự thông tin về tâm trạng hoặc các cơn hoảng sợ của họ và họ thường tập trung vào các khía cạnh thể chất của bệnh, chủ yếu để tìm kiếm sự trấn an về bản chất và tiên lượng của các triệu chứng (Bảng 1).
Bảng 1. Các rối loạn lo âu thường gặp
Rối loạn | Đặc điểm |
---|---|
Rối loạn hoảng sợ (Panic disorder) | Các cơn hoảng sợ bất ngờ và lặp đi lặp lại với lo lắng nhiều giữa các cơn |
Rối loạn lo âu toàn thể (General anxiety disorder, GAD) | Lo lắng và căng thẳng kéo dài, phóng đại mà không có cơ sở hoặc nghiêm trọng hơn nhiều so với lo lắng bình thường mà hầu hết mọi người trải qua |
Rối loạn căng thẳng sau chấn thương (Post-traumatic stress disorder, PTSD) | Rối loạn lo âu suy nhược có thể phát triển sau một sự kiện đáng sợ; đặc trưng bởi những suy nghĩ và ký ức dai dẳng gây sợ hãi về thử thách |
Rối loạn ám ảnh cưỡng chế/nghi thức (Obsessive–compulsive disorder, OCD) | Suy nghĩ không mong muốn lặp đi lặp lại (ám ảnh) và/hoặc các nghi thức (cưỡng chế) khiến người bệnh cảm thấy không thể kiểm soát được |
Đôi khi có tiền sử gia đình về các vấn đề sức khỏe tâm thần (trầm cảm và / hoặc lo lắng) và bệnh nhân có thể có tiền sử trầm cảm hoặc lo lắng trước khi chấn thương đầu. Họ cũng có thể thừa nhận có tính cách lo lắng hoặc ám ảnh nói chung.
Các triệu chứng đau (là biểu hiện tâm thể thường gặp của bệnh trầm cảm) là không phổ biến. Rối loạn giải thể nhân cách (Depersonalisation) và tri giác sai thực tại (derealisation) là những biểu hiện thường gặp. Vì các triệu chứng của lo lắng thường trùng lặp với các triệu chứng thứ phát sau chấn thương đầu, bệnh nhân thường sử dụng các mô tả như yếu hoặc mất thăng bằng để mô tả sự giải thể nhân cách hoặc phàn nàn về các vấn đề thị giác hoặc sợ ánh sáng để mô tả tri giác sai thực tại. Các nhà lâm sàng nên khuyến khích bệnh nhân trình bày rõ hơn về các triệu chứng này và/hoặc đưa ra các cách khác để mô tả chúng. Cũng nên hỏi về các triệu chứng của hoảng sợ như đổ mồ hôi, đánh trống ngực hoặc khó thở. Bệnh nhân bị rối loạn lo âu toàn thể có thể có các triệu chứng tương tự nhưng dai dẳng hơn (Bảng 2).
Bảng 2. Các biểu hiện của Rối loạn giải thể nhân cách và Tri giác sai thực tại
Rối loạn | Đặc điểm |
Rối loạn giải thể nhân cách (Depersonalisation) | Một trải nghiệm không ở trong cơ thể của chính mình hoặc có nguy cơ ngay lập tức biến mất / tách khỏi thực tế gây lo sợ – thường được mô tả là cảm giác sống trong một giấc mơ; mặc dù chức năng nhận thức vẫn còn nguyên vẹn, nhưng những người bị tình trạng này cảm thấy bị ngắt kết nối với ý thức về bản thân và thường giải thích là ‘như thể tôi đang mất trí’ |
Tri giác sai thực tại (Derealisation) | Một trạng thái ý thức tạo ra cảm giác tách rời khỏi mọi môi trường, như thể có một tấm kính ngăn giữa tâm trí và thế giới vật chất; bất kỳ sự tập trung nào cũng đòi hỏi rất nhiều nỗ lực, và người bệnh càng cố gắng tập trung, họ càng trở nên mất kết nối; nó thường bao gồm cảm giác đã từng nhìn thấy (de ́ja` vu) hoặc không bao giờ thấy (jamais vu), và những địa điểm quen thuộc trông xa lạ, kỳ quái và siêu thực |
- Ghi chú người dịch:
- Depersonalisation: De- : mất, loại bỏ khỏi, phi; person: con người → Loại ra khỏi con người của mình, (rối loạn) giải thể nhân cách
- Derealisation: De- mất, loại bỏ, phi; real: thực tế, thực tại → phi thực tế, (tri giác) sai thực tại
Xử trí các rối loạn lo âu
Điều quan trọng là nhận biết các triệu chứng của rối loạn lo âu vì chúng tương đối dễ xử lý và xử lý thành công thường cải thiện chức năng nhận thức.
Giải thích các triệu chứng là bước quan trọng đầu tiên. Một số bệnh nhân sẽ có nhận thức thảm họa hoá (catastrophization), và cần trấn an tích cực và liên tục. Một số bệnh nhân sẽ cần can thiệp với trị liệu nhận thức – hành vi (cognitive–behavioural therapy, CBT), đặc biệt là những bệnh nhân có suy nghĩ tiêu cực kéo dài. Các kỹ thuật hướng dẫn bệnh nhân bao gồm kỹ thuật thư giãn và đánh lạc hướng.
Các thuốc chống trầm cảm là biện pháp điều trị tiêu chuẩn cho tất cả các rối loạn lo âu. Ở Anh, citalopram là chất ức chế tái hấp thu serotonin có chọn lọc (SSRI) đầu tiên được cấp phép để điều trị các cơn hoảng sợ.
Bệnh nhân cần được cảnh báo rằng các triệu chứng có thể xấu hơn khi bắt đầu dùng các chất ức chế tái hấp thu serotonin có chọn lọc. Các triệu chứng xấu đi này thường cải thiện trong một hoặc hai tuần. Bệnh nhân không nên mong đợi cải thiện các triệu chứng trong vòng hai hoặc ba tuần sau khi bắt đầu dùng thuốc. Không nên bắt đầu với liều điều trị đầy đủ: hãy bắt đầu với liều thấp và tăng liều dần.
Tiên lượng cho chứng lo âu nói chung là tốt, với hầu hết bệnh nhân cải thiện với sự trấn an. Các loại thuốc như SSRI nên được sử dụng tiếp tục trong ít nhất 12 tháng để ngăn ngừa các triệu chứng bùng phát trở lại.
ĐỌC THÊM
- Bowen, A., Neumann, W., Conner, M., et al. (1998). Mood disorders following traumatic brain injury: identifying the extent of the problem and the people at risk. Brain Injury 12, 177–190.
- Simeone, D., Knutelska, M., Nelson, D. (2003). Feeling unreal: a depersonalisation disorder update of 117 cases. J Clin Psychiatry 64, 990–997.
Dịch từ: Case Studies in Neurological Rehabilitation, Tarek A.-Z. K. Gaber, CAMBRIDGE UNIVERSITY PRESS, 2008