NẠNG VÀ CÁC DÁNG ĐI VỚI NẠNG

Cập nhật lần cuối vào 31/05/2022

Nạng là dụng cụ trợ giúp đi lại phổ biến tại bệnh viện lẫn cộng đồng, có thể sử dụng tạm thời hoặc lâu dài. Nạng có hai điểm tiếp xúc với cơ thể, do đó nạng vững hơn gậy.

Sử dụng nạng hiệu quả đòi hỏi cơ lực của hai tay và thân mình (cũng như khả năng thăng bằng, kiểm soát của hệ thần kinh trung ương). Các cơ cần được làm mạnh là các cơ làm vững bả vai, cơ duỗi khuỷu, cơ giữ vững cổ tay, và các cơ gập ngón tay. Nên khuyến khích bệnh nhân tập các động tác như đẩy người lên hở mông ở tư thế ngồi, duỗi khuỷu… trước khi sử dụng nạng.

Mục lục

CÁC LOẠI NẠNG

Có hai loại nạng chính: nạng nách (underarm/axilla crutches) và nạng khuỷu (forearm crutches). Loại nạng thường được sử dụng là nạng nách. Tuy nhiên, nếu khả năng kiểm soát cho phép thì nạng khuỷu gọn gàng hơn, đặc biệt là khi sử dụng lâu dài.

Thuận lợi chính của nạng nách là cho phép chuyển đến 80% trọng lượng cơ thể. Tuy nhiên cần nhắc người bệnh về khả năng tổn thương thần kinh cánh tay do chèn ép kéo dài khi sử dụng nạng nách. Cần tránh thả người tựa vào vùng nách. 

Hình: nạng nách và nạng khuỷu

Có một loại nạng khác ít được sử dụng (và cũng ít thấy trên thị trường Việt Nam) là nạng có bệ đỡ (Forearm support crutches, platform crutches). Nạng này có bệ đỡ ở cẳng tay và tay cầm điều chỉnh được, dành cho những người cần nâng đỡ nhiều hơn hoặc không chịu được lực qua cổ bàn tay như viêm khớp dạng thấp.

Nạng có bệ đỡ

Nạng có thể được làm bằng các vật liệu khác nhau như gỗ, nhôm, sắt, inox… Việc lựa chọn loại nạng và vật liệu phụ thuộc vào sự sẵn có, mong muốn về độ bền (inox bền hơn nhôm, gỗ), trọng lượng (nhôm nhẹ hơn), khả năng điều chỉnh (nạng nhôm dễ điều chỉnh), và mức độ khuyết tật của người bệnh.

CÁCH ĐO NẠNG NÁCH

  • Xác định chiều dài của nạng bằng cách đo khoảng cách từ nếp lằn nách trước đến 1 điểm 10-15 cm bên ngoài ngón chân út khi bệnh nhân đứng.
  • Đo vị trí tay cầm bằng cách đặt đầu nạng bên ngoài bàn chân 5-7cm. Khuỷu gập 300, cổ tay duỗi tối đa, các ngón nắm chặt.
  • Bệnh nhân phải có thể nâng mình lên 2-4 cm bằng cách duỗi khuỷu.

CÁC DÁNG ĐI VỚI NẠNG

Dáng đi ba điểm:

  • Chỉ định: gãy chân, cắt cụt, hoặc đau một chân
  • Cách đi: di chuyển hai nạng và chân yếu, sau đó chân mạnh hơn hay chân bình thường, lập lại. Lên cầu thang với chân mạnh trước, xuống cầu thang với nạng và chân đau/yếu trước.
  • Thuận lợi: loại trừ một phần hoặc toàn bộ trọng lượng lên chân bệnh
  • Cách tăng tiến của dáng đi 3 điểm: tuỳ theo chỉ định của thầy thuốc mà mức chịu trọng lượng lên chân đau/yếu/sau mổ có thể thay đổi.
    • Không chịu trọng lượng (NWB): chân đau/mổ không chạm sàn khi di chuyển
    • Chạm mũi/gót chân (toe-touch): bàn chân chạm hờ trên sàn khi di chuyển (tăng giữ thăng bằng)
    • Chịu trọng lượng một phần (PWB): bàn chân chịu một phần trọng lượng, phần lớn trọng lượng vẫn dồn qua hai tay
    • Chịu trọng lượng đến mức dung nạp được (WBAT): chịu trọng lượng nhiều hơn nếu không đau
    • Chịu trọng lượng hoàn toàn (FWB)
Hình: Dáng đi ba điểm

Hình: Lên xuống cầu thang với nạng

Dáng đi 4 điểm

  • Chỉ định: bệnh nhân yếu hai chi dưới hoặc điều hợp kém (thất điều)
  • Cách đi: Nạng trái, chân phải, nạng phải, chân trái, rồi lập lại.
  • Thuận lợi: Vững, luôn luôn có ít nhất 3 điểm tiếp đất
  • Bất lợi: Khó học, dáng đi tương đối chậm 
Hình : Dáng đi bốn điểm

Dáng đi hai điểm

  • Chỉ định: bệnh nhân yếu hai chi dưới hay điều hợp kém (thất điều), tăng tiến của dáng đi bốn điểm
  • Cách đi: nạng trái và chân phải, sau đó nạng phải và chân trái. 
  • Thuận lợi: Vững, nhanh hơn dáng đi 4 điểm, giảm chịu trọng lượng cả hai chân
Hình: Dáng đi hai điểm

Dáng đi đu tới 

  • Chỉ định: bệnh nhân liệt hai chi dưới
  • Cách đi: Tựa lên hai nạng, bệnh nhân di chuyển hai chân đu đến ngang mức nạng

Dáng đi đu qua 

  • Chỉ định: bệnh nhân liệt hai chi dưới
  • Cách đi: Tựa lên hai nạng, di chuyển cả hai chân đu qua hai nạng. Là tăng tiến của dáng đi đu tới.
  • Thuận lợi: dáng đi nhanh nhất (nhanh hơn dáng đi thông thường)
  • Bất lợi: rất tốn năng lượng, khó học
  • Đòi hỏi các cơ bụng và tay mạnh, thăng bằng thân tốt
Hình: Dáng đi đu tới

Dáng đi kéo tới (Drag-to gait)

  • Chỉ định: dùng như dáng đi ban đầu khi tập dáng đi cho bệnh nhân liệt hai chân. Khi bệnh nhân thăng bằng tốt hơn thì chuyển qua dáng đi đu
  • Cách đi: Đưa nạng trái, nạng phải lên, rồi kéo lê hai chân đến mức nạng
  • Bất lợi: rất chậm và tốn nhiều năng lượng
Video hướng dẫn các dáng đi nạng phổ biến

👋 Chào bạn!

Hãy nhập địa chỉ email của bạn để đăng ký theo dõi blog này và nhận thông báo về các bài mới qua email mỗi tuần.

MinhdatRehab

Gởi bình luận

Xin lỗi. Bạn không thể sao chép nội dung ở trang này