Co cứng được định nghĩa là tăng hoạt tính của phản xạ kéo căng ở các cơ xương không tự ý, liên tục hoặc không liên tục. Đặc điểm sự tăng hoạt này là phụ thuộc vào tốc độ.
Lance, 1980 định nghĩa co cứng như sau: “co cứng là một rối loạn của hệ thống cảm giác- vận động đặc trưng bởi sự gia tăng phụ thuộc tốc độ trong các phản xạ kéo căng trương lực (trương lực cơ) cùng với gia tăng phản xạ gân cơ, do sự tăng tính kích thích của phản xạ kéo căng, như là một thành phần của hội chứng tế bào thần kinh vận động cao”.
Co cứng có liên quan đến tổn thương thần kinh trung ương hay các tế bào thần kinh vận động như đột quỵ, u não, bại não, chấn thương tuỷ sống, chấn thương não hoặc các tình trạng viêm.
Cơ chế chính xác của co cứng vẫn còn bàn cãi.
Thật ra tổn thương bó tháp đơn thuần, từ vỏ vận động, bao trong hoặc bó vỏ-gai đơn thuần ở tủy, không tạo nên co cứng, thậm chí còn giảm trương lực cơ. Các nghiên cứu thần kinh học sau này cho thấy co cứng liên quan đến các đường truyền xuống khác gọi là cạnh tháp (parapyramydal tracts) xuất phát từ thân não (không phải là ngoại tháp), các đường này gồm hai hệ thống ức chế và kích thích.
Hệ thống ức chế: Các sợi cạnh tháp xuất phát từ vỏ tiền vận động là các sợi vỏ-lưới (CRT) và tạo thuận một vùng ức chế quan trọng ở hành tủy, nằm ngay ở phía lưng (sau) của bó tháp, gọi là hệ lưới bụng giữa (ventromedial reticular formation). Đường truyền xuống của hệ thống này là bó lưới gai lưng (dorsal reticulo-spinal tract , DRT) nằm ở thừng lưng bên.
Hệ thống kích thích: Ở cao hơn của thân não là một vùng rộng và lan tỏa dường như tạo thuận các phản xạ kéo căng tủy sống. Kích thích vỏ não và bao trong không thay đổi tác dụng tạo thuận của vùng này. Do đó, vùng tạo thuận này dường như ít chịu ảnh hưởng của vỏ não hơn so với hệ thống ức chế. Đường truyền xuống là qua bó lưới- gai trong (medial reticulospinal tract, MRT) của tủy sống bụng giữa. Nhân tiền đình bên là một vùng tạo thuận trương lực cơ duỗi khác, nằm ở hành tủy gần chổ nối với cầu não. Nó đi xuống qua bó tiền đình -gai ngoài (Vestibulo-spinal tract, VST), nằm ở tủy sống bụng giữa gần bó lưới- gai trong. Hệ thống này dường như ít có vai trò đến co cứng. Mặc dù cả hai vùng được xem là kích thích và tạo thuận các phản xạ tủy, nó lại ức chế neuron vận động các cơ gấp.
Trong trường hợp đột quỵ, tổn thương có thể ảnh hưởng đến vùng vỏ tiền vận động hoặc các sợi vỏ-lưới, co cứng là do mất xung động tạo thuận của vỏ não đến hệ thống ức chế (DRT). (Tuy vậy vẫn chưa loại trừ sự đóng góp một phần của gia tăng tính kích thích của hệ thống kích thích VST ở trên). Co cứng ở não thường nhẹ hơn tủy sống và ít rung giật (vì bản thân hệ ức chế còn hoạt động một phần). Co cứng có xu hướng duỗi ở chi dưới, gập ở chi trên theo mẫu đồng vận.
Trường hợp tổn thương tủy sống, do bó tháp gần DRT nên khi tổn thương thường tổn thương cả DRT, gây co cứng, thường co cứng nặng hơn, kèm rung giật.
| Thành phần dương (tăng) | Thành phần âm (giảm) |
| Tăng phản xạ gân cơ | Đồng co cơ co cứng (Spastic Co-Contractions) |
| Co thắt các cơ gấp | Yếu cơ |
| Dấu hiệu Babinski | Vận động chậm |
| Tăng trương lực cơ | Giảm khéo léo |
| Đa động (Clonus) | Mất kiểm soát vận động chọn lọc (SML, Selective Motor Control) |
Một số đặc điểm phân biệt co cứng với cứng đờ (rigidity), một tăng trương lực cơ đặc trưng của hệ ngoại tháp như trong bệnh Parkinson:
Co cứng là một trong những nguyên nhân cơ bản của giảm khả năng di chuyển, co rút mô mềm, đau và tình trạng tăng hoạt cơ quá mức (Gracies, 2005).
Các tác động xấu của co cứng lên sức khoẻ và chất lượng cuộc sống bao gồm:
Co cứng có thể có một số điểm lợi cho bệnh nhân, như là:
Thang điểm Ashworth có Chỉnh sửa (MAS, Modified Ashworth Scale) là một thay đổi để tăng độ nhạy của Thang điểm Ashworth (AS, Ashworth Scale) nguyên bản, đo lường co cứng bằng tay người khám để xác định sức cản của các cơ với vận động thụ động. Thang điểm này không tham chiếu với tốc độ của vận động do đó không đánh giá đáp ứng của phản xạ kéo căng với tăng tốc độ. Tốc độ di chuyển chi thể khoảng 1 giây (nhẩm một-hai-ba)
| Thang điểm Ashworth | |
| 0 | Không tăng trương lực cơ |
| 1 | Tăng nhẹ trương lực cơ tạo giữ lại khi chi thể được di chuyển sang tư thế gấp và duỗi |
| 2 | Tăng đáng kể trương lực cơ, nhưng chi thể được di chuyển dễ dàng |
| 3 | Tăng đáng kể trương lực cơ, vận động thụ động khó khăn |
| 4 | Chi thể cứng ở tư thế duỗi hoặc gấp |
| Thang điểm Ashworth có chỉnh sửa | |
| 0 | Không tăng trương lực cơ |
| 1 | Tăng nhẹ trương lực cơ, biểu hiện bằng giữ lại và thả ra hoặc bởi sức cản tối thiểu ở cuối tầm vận động khi di chuyển phần chi thể sang tư thế gấp hoặc duỗi. |
| 1+ | Tăng nhẹ trương lực cơ, biểu hiện bằng sự giữ lại theo sau bằng sức cản tối thiểu suốt phần còn lại của tầm vận động nhưng phần chi thể bị ảnh hưởng được di chuyển dễ dàng. |
| 2 | Tăng rõ hơn trương lực cơ suốt hầu hết tầm vận động, nhưng phần chi thể ảnh hưởng được di chuyển dễ dàng |
| 3 | Tăng đáng kể trương lực cơ, vận động thụ động khó khăn |
| 4 | Các phần bị ảnh hưởng bị cứng ở tư thế gấp hoặc duỗi. |
Thang điểm Tardieu có chỉnh sửa (Modified Tardieu Scale, MTS) là một thang điểm để đo lường sự co cứng, đánh giá sức cản với vận động thụ động cả ở tốc độ chậm và ở tốc độ nhanh.
Bệnh nhân được đặt ở tư thế ngồi đánh giá chi trên và nằm ngữa để đánh giá các chi theo các quy trình chuẩn
Lượng giá chia làm hai bước cho mỗi nhóm cơ được khám.
R2 sau đó trừ với R1 và kết quả này (R2-R1) thể hiện thành phần trương lực động của cơ.
Chất lượng phản ứng cơ:
0 Không kháng trở suốt tầm vận động thụ động
1 Kháng trở nhẹ suốt tầm, không có giữ lại rõ ràng ở một góc xác định
2 Giữ lại ở một góc xác định sau đó thả ra
3 Đa động ngắn (Fatigable clonus) (<10 giây) xảy ra ở một góc xác định
4 Đa động dài (Unfatigable clonus) (>10 giây) xảy ra ở một góc xác định
5 Không thể vận động được khớp
Giải thích
Can thiệp với co cứng thay đổi từ các biện pháp bảo tồn (dùng thuốc, không dùng thuốc) đến các can thiệp mạnh hơn (phẫu thuật). Cần cân nhắc những lợi ích của điều trị so với các tác hại có thể có.
Các cân nhắc ảnh hưởng đến điều trị
Bao gồm các vấn đề sau:
Phòng và xử trí các yếu tố làm tăng co cứng.
Các loại thuốc được sử dụng cho co cứng toàn thể thường được kê toa bao gồm:
Phẫu thuật Phá huỷ Rễ cột sống Lưng Chọn lọc (SDR, Selective Dorsal Rhizotomy) làm giảm co cứng ở hai chi dưới vĩnh viễn bằng cách phá vỡ cung phản xạ tủy sống bất thường, nhằm cải thiện chức năng vận động ở người liệt hai chân.
1. TỔNG QUAN VÀ NGUYÊN TẮC Phục hồi chức năng (PHCN) tim mạch là chiến…
Thang theo dõi phát triển trẻ em CDPS: Kết quả Pilot 1 và mời góp…
Sinh cơ học không khô khan như những con số. Đó là câu chuyện về…
Hướng dẫn tập luyện cụ thể cho bệnh nhân mắc bệnh Parkinson
Ôn giải phẫu sinh lý Tim mạch theo định hướng lâm sàng, phần 1