Dáng đi có thể được chia một cách đơn giản gồm thì chống/tựa và thì đu. Tựa là thời gian bàn chân tiếp xúc với mặt đất, và đu đưa là khi bàn chân ở trong không trung để đưa chi tiến về phía trước. Trong cuốn Phân tích dáng đi cổ điển: Chức năng bình thường và bệnh lý, của Jacquelin Perry, MD, ScD và Judith Burnfield, PhD, PT, thì tựa chiếm 62 phần trăm chu kỳ dáng đi và thì đu 38 phần trăm còn lại, ở tốc độ đi thông thường là 82 m /min. (Hoặc dễ nhớ là tỷ lệ 60% và 40%). Vì đi là hoạt động của hai chân và trọng lượng cơ thể được chuyển từ chân này sang chân kia, thì tựa có thể được chia nhỏ hơn thành các thời điểm khi mà cả hai chân đều chạm đất, được gọi là tựa kép (double stance) hoặc khi chỉ một chân chạm đất, được gọi là tựa một chi (single-limb support, SLS).
Hãy xét một sải chân bằng cách theo dõi chuyển động của bàn chân phải, bắt đầu khi gót chân phải tiếp xúc với mặt đất đầu tiên. Thời điểm này được gọi là chạm gót hoặc tiếp xúc đầu tiên và bàn chân trái phía sau vẫn đang chạm đất. Bàn chân trái vẫn giữ chạm đất đến 12% đầu tiên của chu kỳ dáng đi khi bàn chân phải nhanh chóng chuyển sang đáp ứng tải. Đây là giai đoạn đầu quan trọng của dáng đi khi bàn chân phải chuẩn bị để tiếp nhận toàn bộ trọng lượng cơ thể trước khi chân trái nhấc khỏi mặt sàn. Có một sự gia tăng mạnh của lực phản ứng nền (GRF) và sự chuyển đổi đột ngột hướng của khớp dưới sên (STJ) thành vặn ngoài.
Perry và Burnfield đưa ra khái niệm về bốn “lắc bàn chân” (foot rockers) trong thì tựa.
Heel Rocker – lắc gót chân hoạt động từ tiếp xúc ban đầu qua đáp ứng tải và chiếm 12% đầu tiên của chu kỳ dáng đi. Thuật ngữ “lắc gót chân” có thể hơi bị nhầm lẫn vì chính động lượng của cơ thể và hoạt động hợp lực của các cơ ở chi dưới đảm bảo cho bàn chân hạ xuống tiếp xúc hoàn toàn với mặt nền. Sau khi đánh gót chân, cơ chày trước và các cơ gập mu chân khác hoạt động để giảm tốc độ bàn chân khi nó hạ xuống mặt nền một cách có kiểm soát.
Giai đoạn tựa một chân (SLS) bao gồm 38 % tiếp theo của chu kỳ dáng đi, được chia thành giữa thì tựa và cuối thì tựa. Ở giữa thì tựa (12 đến 31 phần trăm chu kỳ dáng đi), bàn chân đặt phẳng trên mặt nền nâng đỡ cơ thể khi xương chày tăng tốc qua trục thẳng đứng. Bàn chân cố định phải hấp thụ tất cả các lực và đồng thời cho phép chuyển động ra trước của tâm áp (center of pressure, COP) lên đầu xương bàn đốt. Hoạt động trơn tru qua giai đoạn SLS phụ thuộc vào nhiều yếu tố bao gồm hoạt động không bị gián đoạn của khớp cổ chân, hoặc lắc cổ chân (ankle rocker). Xương chày được đưa “lên và qua” trên xương sên, xoay quanh khớp cổ chân. Các cơ nội tại của bàn chân và cơ chày sau hoạt động để duy trì vòm dọc trong. Vào cuối của lắc cổ chân, cơ tam đầu cẳng chân co mạnh.
Giữa SLS, gót chân bắt đầu nâng lên, đánh dấu sự chuyển đổi sang cuối thì tựa (31 đến 50% của chu kỳ dáng đi). Trọng lượng cơ thể bây giờ rơi ngoài vùng nâng đỡ của bàn chân, và hoạt động bản lề của các xương bàn đốt tạo thành lắc bàn chân trước (forefoot rocker). Cơ gập lòng bàn chân co trên một bàn chân trước cố định.
Thành phần cuối cùng của thì tựa xảy ra khi chân trái tiếp xúc ban đầu và chân phải bây giờ ở tiền đu đưa (50 đến 62 % của chu kỳ dáng đi). Lần tựa kép thứ hai này đem lại sự ổn định tạm thời khi bàn chân phải chuẩn bị cho đu đưa. Lắc ngón cái (toe rocker) dựa vào bàn chân trước trong và ngón cái. Chân trái sau đó tiếp nhận toàn bộ trọng lượng cơ thể khi chân phải nhấc lên khỏi mặt sàn.
Lắc ngón cái xảy ra ngắn và liền mạch với lắc phần trước bàn chân, nên một số y văn chỉ đề cập đến 3 rockers mà thôi.
Thì tựa liên quan đến 4 lắc bàn chân xảy ra liên tục, trơn tru. Sự gián đoạn hoặc giới hạn trong bất kỳ giai đoạn nào sẽ phá vỡ nhịp và thời gian của toàn bộ trình tự.
Trên lâm sàng, việc bổ sung bù trừ cho các lắc bàn chân bị suy giảm (như khi cổ chân bị cứng) có thể trợ giúp vận động dễ dàng hơn.
Là góc của phân đoạn cẳng chân so với đường thẳng đứng, có thể mô tả là nghiêng trước (inclined) hay ngả sau (reclined).
Thường mọi người nghĩ rằng cẳng chân, hoặc là cẳng chân và đùi đều thẳng đứng vào giữa thì tựa. Trên thực tế, khi quan sát thì tựa của dáng đi, ta không thấy lúc nào cả hai đều thẳng đứng.
Góc dóng thẳng cẳng chân khi đứng có vai trò quan trọng trong chuyển động học của phân đoạn gần (đùi- thân mình) và lực phản ứng nền (GRF).
Tóm lại, góc dóng thẳng cẳng chân nghiêng trước phù hợp góp phần vào độ vững của dáng đi; tạo thuận và ảnh hưởng đến chuyển động học của đùi, xương chậu và thân mình; tạo thuận cho vector lực phản ứng nền phù hợp để tạo nên các moment duỗi háng và gối và góp phần vào bảo tồn năng lượng.
Thành tựu này đặc biệt có ý nghĩa đối với những bệnh nhân bị liệt…
Bài viết này trình bày tổng quan về giải phẫu các động mạch não và…
Bài viết này cung cấp cái nhìn tổng quan về EBM, các nguyên tắc cơ…
Bài viết trình bày kỹ thuật sóng xung kích ngoài cơ thể trong điều trị…
Dưới đây là bản điểm tin y học tháng 3/2025, tập trung vào các lĩnh…
Bài viết hướng dẫn tự xoa bóp để giảm phù bạch mạch sau phẫu thuật…