illustration of man development, from child to old man
Ghi chú: Do từ vựng tiếng Việt còn có nhiều điểm chưa thống nhất về độ tuổi(so với tiếng Anh), bài viết sử dụng các từ sau:
XEM THÊM: QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI. ĐẠI CƯƠNG.
Giai đoạn tăng trưởng và phát triển của trẻ mới sinh trong 1-2 tháng đầu được gọi là thời kỳ phát triển sơ sinh, trong đó trẻ cần được chăm sóc liên tục để tồn tại. Nhiệm vụ đầu tiên và lớn nhất của trẻ sơ sinh là thích nghi với thế giới bên ngoài bụng mẹ.
Trẻ sơ sinh bình thường trải qua năm trạng thái kích thích, bao gồm ngủ đều (regular sleep), ngủ không đều (irregular sleep), tỉnh không hoạt động (Alert inactivity), tỉnh táo hoạt động (Waking activity) và khóc.
Trẻ sơ sinh thường có chu kỳ thức ngủ khoảng mỗi 4 giờ (nghĩa là thức 1 giờ, sau đó ngủ 3 giờ và lặp lại).
Hầu hết thời gian của trẻ sơ sinh (16-18 giờ mỗi ngày) được dành cho ngủ đều hoặc không đều. Ngủ không đều hay còn gọi là ngủ có vận động mắt nhanh (rapid-eye-movement, REM), vào lúc đó trẻ cử động chân tay và đánh mắt, chiếm 50 % lúc trẻ mới sinh. Các sóng não ghi nhận hoạt động nhanh, nhịp tim và nhịp thở nhanh hơn. Trong giấc ngủ đều (non-REM), nhịp tim, nhịp thở và hoạt động não đều đặn và trẻ sơ sinh nằm yên tĩnh không ngọ nguậy chân tay như giấc ngủ REM. Giấc ngủ REM giảm dần khi trẻ lớn, vào lúc 4 tháng, giấc ngủ REM còn khoảng 40% và giảm xuống 25% vào lúc trẻ được 1 tuổi (ở người trưởng thành là 20%).
Trẻ sơ sinh sử dụng tiếng khóc 2-3 giờ mỗi ngày như là một phương tiện giao tiếp — có những tiếng khóc khác nhau để gợi ra những phản ứng khác nhau từ người chăm sóc. Những tiếng rên rỉ hoặc tiếng khóc nhỏ nhẹ có thể đơn giản chỉ là biểu hiện mong muốn được chú ý (“hãy bồng con lên và ôm ấp con”), trong khi khóc thét dữ dội có thể có nghĩa là đói hoặc một số dạng khó chịu khác. Hầu hết các bậc cha mẹ có thể xác định được nhu cầu của con mình qua tiếng khóc; tuy nhiên, một số trẻ sơ sinh khóc mà không rõ lý do.
Một số giác quan của trẻ sơ sinh phát triển tốt khi mới sinh, trong khi những giác quan khác phải mất hàng tháng mới phát triển đầy đủ. Ví dụ:
Xúc giác đã phát triển tốt vào thời điểm mới sinh và trẻ sơ sinh rất nhạy cảm với đau. Vì xúc giác rất quan trọng đối với sự gắn bó và phát triển cảm xúc, nên có thể nói đây là một trong những giác quan hoạt động sớm nhất của trẻ sơ sinh.
Trẻ sơ sinh có khả năng phân biệt giữa một số vị khác nhau; ngọt là vị được ưa thích khi mới sinh, có lẽ do sữa mẹ có vị ngọt. Một lần nữa, đây là một cơ chế sinh tồn cơ bản đứa trẻ cần thức ăn để tồn tại và thích thức ăn mà mẹ chúng có thể cung cấp. Em bé sơ sinh cũng có thể nhận ra mùi của người mẹ và sẽ tỏ ra ưa thích mùi mà chúng nhận ra từ khi còn trong bụng mẹ hơn.
Độ nhạy với âm thanh cải thiện đáng kể trong vài tháng đầu đời; tuy nhiên, trẻ sơ sinh nhận biết được những âm thanh quen thuộc mà trẻ nghe được khi còn trong bụng mẹ, đặc biệt là giọng nói của mẹ. Trẻ sơ sinh thích giọng nói của con người hơn các âm thanh khác và trẻ sơ sinh 3 ngày tuổi có thể phân biệt giữa một số mẫu âm thanh khác nhau.
Thị giác là giác quan phát triển kém nhất ở trẻ sơ sinh. Trẻ sơ sinh chỉ có thể nhìn rõ các vật hoặc người khi trước mặt trong vòng 40-50 cm thường là khoảng cách giữa trẻ sơ sinh và mặt mẹ khi trẻ được bế. Khả năng nhìn dõi theo (tracking, visual pursuit) xuất hiện vào tuần thứ 1-2. Thị lực rất hạn chế nhưng phát triển nhanh chóng trong vài tháng sau đó. Khả năng phân biệt chi tiết gần như khả năng của người lớn vào lúc 6-7 tháng. Sự phân biệt màu sắc xảy ra vào khoảng 4 tháng tuổi, nhưng trẻ sơ sinh vẫn thích màu sắc và hoa văn tươi sáng hơn là màu xám.
Phát triển khá vào lúc sinh, các ống bán khuyên ở tai trong có thể phát hiện vận động (gia tốc góc và gia tốc thẳng). ĐIều này quan trọng trong sự phát triển kiểm soát tư thế.
Mặc dù cảm giác về sờ và đau khá phát triển nhưng cảm nhận ở cơ và khớp kém phát triển vào lúc sinh. Các cảm giác này cũng quan trọng trong kiểm soát tư thế.
Đáp ứng phản xạ là “phản ứng vận động có thể tiên đoán được sau một kích thích cảm giác đặc hiệu”. Phản xạ có thể được chia thành sống còn (như mút, rooting), bảo vệ (như ợ hơi, rút người). Vai trò của phản xạ trong kiểm soát vận động vẫn chưa rõ và còn bàn cãi.
Có một số phản xạ quan trọng mà một trẻ sơ sinh thể hiện sau khi sinh; mỗi loại có thời hạn và chức năng cụ thể. Ví dụ:
Nhận xét về phản xạ: Các mẫu đáp ứng có thể chứng tỏ sự phát triển bất thường.
Sự hiện diện của các yếu tố sau có thể giúp chẩn đoán bất thường:
Trẻ nhũ nhi (infant) và ấu nhi tăng trưởng và phát triển với tốc độ nhanh chóng trong những năm đầu đời. Sự phát triển cả kỹ năng vận động thô và vận động tinh giúp một đứa trẻ từ một em bé sơ sinh hoàn toàn phụ thuộc trở thành một trẻ mới biết đi hoạt động khá độc lập trong khoảng 3 năm.
Tăng trưởng xảy ra nhanh hơn ở giai đoạn nhũ nhi so với bất kỳ giai đoạn nào khác sau khi sinh. Thông thường, trẻ tăng gấp đôi trọng lượng khi được 3 tháng tuổi và tăng gấp ba vào lúc được 1 tuổi.
Sự tăng trưởng này biểu hiện rõ ở biểu đồ tăng trưởng chiều cao và cân nặng của trẻ.
Trẻ nhũ nhi không chỉ đơn giản là phiên bản thu nhỏ của người lớn. So với thanh thiếu niên và người trưởng thành, trẻ nhỏ nặng phần trên hơn vì đầu và thân của trẻ to không cân đối. Sau này khi sự phát triển của hông, chân và bàn chân bắt kịp thì cơ thể trẻ có tỷ lệ giống với người trưởng thành hơn.
Những thay đổi về thể chất mà chúng ta thấy khi trẻ sơ sinh lớn lên là rất ấn tượng. Điều đáng kinh ngạc hơn nữa là những thay đổi liên quan đến não và hệ thần kinh. Cảm giác đói hoặc đau của trẻ sơ sinh, nụ cười của trẻ và nỗ lực ngồi thẳng lưng hoặc cầm đồ vật của trẻ đều phản ánh hoạt động của não và phần còn lại của hệ thần kinh.
Sự khởi đầu của não có thể được truy dấu từ giai đoạn hợp tử. Vào khoảng 3 tuần sau khi thụ thai, một nhóm tế bào hình thành một cấu trúc phẳng được gọi là tấm thần kinh. Vào tuần thứ 4, tấm thần kinh sẽ gấp lại để tạo thành một cái ống. Khi hai đầu của ống đóng lại, các tế bào thần kinh được tạo ra trong một vùng nhỏ của ống thần kinh. Quá trình tạo các tế bào thần kinh bắt đầu khoảng 10 tuần sau khi thụ thai, và đến 28 tuần, bộ não đang phát triển có hầu như đầy đủ các tế bào thần kinh mà nó sẽ cần.
Từ vị trí sản xuất tế bào thần kinh trong ống thần kinh, các tế bào thần kinh di chuyển đến vị trí cuối cùng của chúng trong não. Bộ não được xây dựng theo từng giai đoạn: Các tế bào thần kinh ở lớp sâu nhất được định vị đầu tiên, tiếp theo là các tế bào thần kinh ở lớp thứ hai, tiếp tục cho đến khi tất cả sáu lớp của não trưởng thành ở đúng vị trí, vào khoảng 7 tháng sau khi thụ thai (Rakic, 1995). Trong tháng thứ tư của quá trình phát triển trước khi sinh, các sợi trục bắt đầu thu nhận myelin – một màng bọc chất béo giúp tăng tốc độ truyền dẫn thần kinh. Quá trình này tiếp tục diễn ra trong thời kỳ sơ sinh, đến thời thơ ấu và thiếu niên (Casaer, 1993).
Trong những tháng sau khi sinh, sợi trục và đuôi gai mọc dài hơn, và giống như một cây đang phát triển, các nhánh đuôi gai nhanh chóng mọc ra các chi mới. Khi số lượng đuôi gai tăng lên, số lượng khớp nối thần kinh cũng tăng lên, đạt mức cao nhất vào lúc khoảng một tuổi. Sau đó, số lượng các khớp nối thần kinh giảm đi, một hiện tượng được gọi là cắt tỉa khớp nối thần kinh (synaptic pruning). Do đó, bắt đầu từ giai đoạn nhũ nhi và tiếp tục đến giai đoạn đầu tuổi vị thành niên, não “giảm kích thước”, loại bỏ các khớp nối thần kinh không hoạt động (Webb, Monk, & Nelson, 2001).
Các tế bào thần kinh đệm, chiếm một nửa khối lượng não trong thời thơ ấu, chịu trách nhiệm cho một quá trình được gọi là myelin hoá. Quá trình này cải thiện việc truyền thông điệp giữa các khớp nối thần kinh và hỗ trợ sự phát triển của não bộ. Sự kết nối giữa các tế bào thần kinh lân cận (được tạo ra trơn tru hơn thông qua quá trình myelination) tạo điều kiện cho chức năng não nâng cao , chẳng hạn như lập kế hoạch và thực hiện các hành vi cũng như tích hợp thông tin cảm giác từ môi trường. Do quá trình cắt tỉa khớp thần kinh, quá trình myelin hoá và trải nghiệm môi trường của trẻ, bộ não đang phát triển sẽ phát triển từ trọng lượng 30% trọng lượng lúc trưởng thành khi mới sinh lên 70% vào lúc tuổi.
Tính mềm dẻo thần kinh cũng là một khía cạnh quan trọng của sự phát triển thời thơ ấu. Tính mềm dẻo của thần kinh là một thuật ngữ chung dùng để chỉ những thay đổi trong đường dẫn truyền thần kinh và các khớp nối thần kinh gây ra bởi những thay đổi trong hành vi, môi trường, các quá trình thần kinh, suy nghĩ và cảm xúc cũng như những thay đổi do chấn thương của cơ thể. Khái niệm về sự mềm dẻo thần kinh cho thấy cách thức não thay đổi trong suốt cuộc đời và cách thức các vùng khác nhau của não có thể phát triển và thích ứng theo thời gian. Sự thay đổi này xảy ra ở nhiều cấp độ khác nhau, từ những thay đổi tế bào (do học tập tạo nên) đến những thay đổi diện rộng để phản ứng với chấn thương. Vai trò của tính mềm dẻo thần kinh được xem là quan trọng đối với sự phát triển lành mạnh, học tập, trí nhớ và phục hồi sau tổn thương não.
Bộ não trưởng thành được chuyên biệt hóa, với các chức năng được xác định ở trong các vùng cụ thể. Một số nguyên tắc chung mô tả sự biệt hoá của não khi trẻ phát triển là:
Kỹ năng vận động đề cập đến khả năng di chuyển cơ thể và điều khiển đồ vật của chúng ta.
Các kỹ năng vận động thô (gross motor skills) điều phối các nhóm cơ lớn kiểm soát tay và chân của chúng ta và liên quan đến các vận động lớn như giữ thăng bằng, chạy và nhảy. Đến cuối năm thứ hai, hầu hết các trẻ (trừ những trẻ khuyết tật hoặc có nhu cầu đặc biệt khác) có thể đứng dậy, đi / chạy, leo cầu thang, nhảy và nhảy từng chân luân phiên. Khi trẻ lớn hơn (4-5 tuổi), nhiều trẻ cũng có thể bắt bóng, đạp xe đạp và chạy với tốc độ và nhanh nhẹn nhiều hơn. Điều kiện tiên quyết đối với tất cả những kỹ năng này là kiểm soát tư thế — khả năng giữ cao đầu, ngồi độc lập và đứng. Tư thế thích hợp cho phép đứa trẻ học cách bước đi, chạy và tham gia vào các kỹ năng vận động thô khác.
Ngược lại, các Kỹ năng vận động tinh (Fine motor skills) liên quan đến sự phối hợp của các cử động cơ nhỏ, thường bao gồm hoạt động của bàn tay phối hợp với mắt. Phối hợp tay và mắt cho phép trẻ thực hiện các kỹ năng như vẽ, cài nút và kéo khoá, ăn với đồ dùng và buộc dây giày. Trẻ em tăng khả năng thành thạo các kỹ năng này thông qua thực hành. Ví dụ: vào lúc trẻ 2 tuổi, trẻ chỉ có thể vẽ các nét vẽ nguệch ngoạc bằng bút chì màu, nhưng đến 5 tuổi, trẻ có thể vẽ khuôn mặt của một người hoàn chỉnh với mắt, mũi và miệng.
Như đã nói ở trên, trẻ em phát triển rất nhanh và đạt được các mốc thể chất nhanh chóng trong những năm đầu đời. Sau đây là danh sách các cột mốc quan trọng xảy ra ở trẻ em trong những năm hình thành đầu tiên.
Sự phát triển kỹ năng vận động trong giai đoạn 0-24 tháng (nhũ nhi) diễn ra một cách liên tục cho đến khi trẻ đứng và đi, phát triển những kỹ năng vận động tinh cơ bản. Quá trình phát triển này sẽ được trình bày riêng ở một bài viết khác.
Tài liệu tham khảo:
Essentials of Human Development, A Life-Span View. Robert V. Kail, John C. Cavanaugh. Wadsworth, Cengage Learning. 2014
Bài viết trình bày tổng quan về Phương Pháp Phân Tích Hành Vi Ứng Dụng…
Bài viết trình bày các thay đổi sinh lý của mảnh ghép sau phẫu thuật,…
Thành tựu này đặc biệt có ý nghĩa đối với những bệnh nhân bị liệt…
Bài viết này trình bày tổng quan về giải phẫu các động mạch não và…
Bài viết này cung cấp cái nhìn tổng quan về EBM, các nguyên tắc cơ…