Bàn chân quay sấp với cung dọc gan chân bình thường.
Sờ
Mặc dù nhiệt độ da xung quanh hông và dọc theo đùi có vẻ bình thường, nhiệt độ của mặt sau của mấu chuyển lớn hơi cao hơn một chút.
Ấn đau dải chậu chày và lồi xương mặt sau mấu chuyển lớn, với cảm giác lùng nhùng xung quanh vị trí của túi thanh mạc (Hoppenfield 1986)
Chiều dài cơ
Cơ căng mạc đùi (Tensor fasciae latae) – căng
Cơ mông nhỡ (Gluteus medius) – căng
Cơ mông nhỏ (Gluteus minimus) – căng
Test Ober đánh giá cơ căng cân đùi
Lượng giá chức năng, bao gồm ROM và cơ lực
Đi với dáng đi Trendelenburg và bàn chân quay sấp
Khó nâng hông đối diện khi đứng và khi đi (VAS tăng lên 4)
Gập và khép háng trong thì đu của chân phải khi đi chậm có thể nghe và sờ thấy tiếng bật ở bên hông phải, trong khi thì chống của chân phải thì đau và khó giữ khung chậu hai bên ngang bằng (nghĩa là dấu Trendelenburg dương tính).
Dạng háng có kháng cản ở tư thế nằm ngửa cho thấy cơ lực bên phải giảm
Khả năng vận động của khớp có vẻ bình thường, mặc dù kết hợp gập, khép và xoay trong của khớp háng (ở tư thế nằm ngửa) có cảm giác căng và kèm theo đau mặt ngoài háng và đau dọc theo mặt ngoài đùi
Chênh lệch chiều dài chân tuyệt đối (True leg length discrepancy) (Hoppenfield 1986). Chân trái ngắn hơn chân phải gần 3 cm
1. Dựa trên thông tin được trình bày, chẩn đoán tạm thời của bạn là gì?
Viêm túi thanh mạc mấu chuyển lớn (Trochanteric bursitis)
2. Những dấu hiệu và triệu chứng nào dẫn bạn đến chẩn đoán này, và cơ chế nào có thể góp phần gây ra vấn đề?
Khớp háng kêu (snapping hip) không phải là hiếm gặp trong các hoạt động như lên xuống cầu thang, và không gây ra các triệu chứng chính (đau). Tuy nhiên, yếu của cơ mông nhỡ, căng của cơ căng cân đùi và sự chênh lệch về chiều dài chân có thể gây thêm áp lực mô mềm lên túi thanh mạc và sự cọ sát trong quá trình di chuyển. Cơ chế này có thể dẫn đến cảm giác nhức nhối trong trường hợp nhẹ và đau dữ dội hơn trong trường hợp viêm và phù nề túi thanh mạc mấu chuyển lớn. Mặc dù cảm giác sờ sưng nề quanh túi thanh mạc có thể gợi ý viêm túi thanh mạc, bằng chứng hiện tại cho thấy sự liên quan của cơ mông nhỡ hoặc cơ cơ mông nhỏ với các triệu chứng ở mấu chuyển lớn hơn là túi thanh mạc (Alvarez-Nemegyei & Canoso 2004).
(Và do đó hiện nay được gọi là hội chứng đau mấu chuyển lớn thay vì là viêm túi thanh mạc mấu chuyển lớn, người dịch).
3. Bạn sẽ giải quyết những vấn đề này như thế nào trong kế hoạch điều trị của mình?
Giảm thiểu lực ép cục bộ lên vùng mấu chuyển lớn bằng cách đặt một chiếc gối giữa hai chân và giữ tư thế dạng háng khi nằm nghiêng trên giường có thể phòng ngừa thức giấc vào ban đêm. Ngoài ra, một tấm nệm mềm hơn và một tấm chăn gấp đặt phía trên xương chậu có thể làm giảm áp lực lên vùng mấu chuyển lớn khi nằm nghiêng về bên đau.
Điều trị có thể bao gồm:
Chườm lạnh, xoa bóp nhẹ tại chỗ để giảm sưng và đau, đồng thời cải thiện cung cấp máu tại chỗ bám tận của cơ lên mấu chuyển lớn
Kéo giãn cơ căng mạc đùi và dải chậu chày, đồng thời tăng cường sức mạnh cho cơ mông nhỡ và cơ mông nhỏ, giúp giải quyết tình trạng mất cân bằng cơ. Giảm thiểu tình trạng đè ép và cọ xát mô có khả năng làm giảm kích ứng và viêm.
Điều chỉnh hoạt động, đi giày phù hợp và giảm cân có thể giúp giảm thiểu nguy cơ quá tải mô.
4. Những vấn đề phổ biến/tình trạng bệnh lý và ít phổ biến nào cần được loại trừ?
Hội chứng cọ xát dải chậu chày là một nguyên nhân thường gặp của đau mặt ngoài đầu gối và có thể kết hợp với đau dọc theo dải chậu chày, mặc dù tình trạng này thường gặp hơn trong các môn thể thao sức bền (Ellis và cộng sự 2007). Các yếu tố như yếu cơ dạng háng và sự căng của dải chậu chày có thể gây ra sự đè nén và ma sát của các mô với lồi cầu ngoài của xương đùi, đặc biệt là trong tầm 30 độ gập gối và xoay trong của xương chày (Fairclough et al 2006). Mặc dù khác với viêm túi thanh mạc mấu chuyển lớn (hoặc viêm điểm bám cơ), việc điều trị hội chứng dải chậu chày cũng khá tương tự nhau.
Các nguyên nhân ít gặp hơn của đau mặt ngoài đùi và gối là đau lan từ các mô thần kinh hoặc cột sống thắt lưng, hoặc bệnh lý gân cơ nhị đầu đùi. Các nguyên nhân không thể bỏ sót là tổn thương dây thần kinh mác chung, hoặc ở những người trẻ hơn, là trượt chỏm xương đùi hoặc bệnh Perthes ’(Brukner & Khan 2001b).
5. Các yếu tố cơ sinh học có thể góp phần vào tình trạng hiện tại là gì?
Cùng với các yếu tố sinh cơ học như sự chênh lệch về chiều dài chân, sự mất cân bằng cơ bắp, và các vấn đề về vẹo ngoài và quay sấp bàn chân, béo phì có thể làm tăng lực ép khi đi bộ và lên xuống cầu thang.
6. Những mong đợi của bệnh nhân sẽ ảnh hưởng như thế nào đến việc điều trị của bạn?
Thực hiện chương trình tập luyện tại nhà thường xuyên, chườm đá trước khi đi ngủ và giảm lực đè ép bằng cách giữ tư thế dạng háng khi ngủ có thể giúp làm giảm kích thích. Cải thiện giấc ngủ và ít mệt mỏi hơn có thể giúp giữ tư thế xương chậu đúng khi đi.
7. Bệnh nhân có thể có những lợi ích từ việc giới thiệu đến các chuyên gia y tế khác hay không?
Bên cạnh điều trị vật lý trị liệu, thuốc giảm đau NSAID hoặc tiêm corticosteroid có thể giúp làm giảm các triệu chứng. Giày dép và dụng cụ chỉnh hình bàn chân phù hợp có thể hỗ trợ giảm thiểu sự xoay trong của xương chày trong khi đi.
Siêu âm chẩn đoán có thể hỗ trợ đánh giá các mô mềm trong vùng mấu chuyển lớn để xác định chẩn đoán. Chụp X-quang có thể loại trừ trượt chỏm xương đùi hoặc bệnh Perthes.
MinhdatRehab, Lược theo:
Clinical case studies in physiotherapy. Lauren Jean Guthrie. 2009, Elsevier Limited.
MinhDat Rehab
Admin PHCN-Online.com và Yhocphuchoi.com, kênh YouTube PHCN Online. Bút danh Y học: Minh Dat Rehab. Bút danh văn nghệ: Mạc Đình