Khớp thái dương hàm (temporomandibular joint, TMJ), hoặc khớp hàm là một khớp hoạt dịch cho phép các vận động phức tạp, đóng vai trò quan trọng trong thở, ăn và nói.
Các đặc điểm độc nhất với khớp thái dương hàm trong cơ thể là:
Rối loạn chức năng khớp thái dương hàm có thể gây đau, khó chịu và ảnh hưởng đến cuộc sống bệnh nhân. Đây là một rối loạn thường gặp, đến 34 % dân chúng báo cáo bị rối loạn chức năng khớp thái dương hàm.
Cần nắm vững giải phẫu chức năng khớp thái dương hàm và các cấu trúc liên quan để có thể chẩn đoán chính xác và điều trị phù hợp.
Khớp thái dương hàm được cấu tạo bởi chỏm lồi cầu của xương hàm dưới và hõm khớp (hoặc ổ chảo) của xương thái dương, ở hai bên.
Xương thái dương bao gồm năm phần: phần trai, phần đá, lỗ tai trong, xương gò má và hố sọ giữa. Dây thần kinh mặt (điều khiển vận động các cơ mặt) và dây thần kinh tiền đình ốc tai (thăng bằng và thính giác) đều chạy dọc ống tai trong. Hõm khớp của xương thái dương (còn gọi là hõm hàm, mandibular fossa) nằm ở trước lỗ tai ngoài. Phần trước của hõm khớp gọi là củ khớp (articular tubercle) hoặc lồi khớp (articular eminence) – khi xương hàm dưới hạ xuống, chỏm lồi cầu sẽ nằm dưới điểm mốc này. Phần sau của hõm khớp là củ sau ổ chảo (postglenoid tubercle), ngay trước lỗ tai ngoài.
Lồi cầu xương hàm dưới có một số hình dạng bình thường, và hai bên phải cùng một hình dạng. Lồi cầu dạng phẳng một bên có thể là dấu hiệu bệnh lý nếu bên đối diện hình góc.
Khớp thái dương hàm là một khớp hoạt dịch phức tạp. Khớp có vận động bản lề ở một mặt phẳng (khớp dạng bản lề, ginglymoid joint) và cùng lúc đó có vận động trượt (một khớp trượt). Do đó TMJ là một khớp trượt – bản lề (ginglymoarthrodial joint).
Khớp bao gồm các diện khớp sụn xơ và một đĩa khớp chia khớp thành 2 khoang. Các khoang trên và khoang dưới được lót bởi các màng hoạt dịch trên và dưới riêng biệt. Khoang khớp dưới chứa khoảng 0,9 ml hoạt dịch, và khoang khớp trên chứa khoảng 1,2 ml hoạt dịch, đóng vai trò bôi trơn giữa các mặt khớp trong khi hoạt động.
Bao là một màng xơ bao quanh khớp và gắn vào viền khớp, đĩa khớp và cổ của lồi cầu xương hàm dưới. Lót trong bao khớp là màng hoạt dịch giàu mạch máu, cho phép sự khuyết tán của huyết tương và các thành phần của máu để tạo nên hoạt dịch.
Đĩa khớp là phần xơ sợi mở rộng của bao khớp chạy giữa hai mặt khớp của khớp thái dương hàm. Đĩa ăn khớp với hõm của xương thái dương ở trên và lồi cầu của xương hàm dưới. Đĩa chia khớp thành hai phần, mỗi phần có màng hoạt dịch riêng. Đĩa cũng được gắn với lồi cầu ở bên trong và các dây chằng bên ở bên ngoài. Phần trước đĩa gắn vào bao khớp và đầu trên của cơ chân bướm ngoài. Phần sau đĩa gắn vào hõm xương hàm dưới và được gọi là mô sau đĩa.
Không giống như đĩa khớp, mô sau đĩa là mô có mạch máu và phân bố thần kinh. Do đó, mô sau đĩa thường là nguồn gây đau quan trọng trong Rối loạn khớp thái dương hàm, đặc biệt khi có tình trạng viêm hoặc chèn ép bên trong khớp.
Các dây chằng cung cấp độ vững thụ động cho khớp thái dương hàm. Về cấu tạo dây chằng tương tự như gân, chúng có nguồn cung cấp mạch máu nghèo nàn.
Ba dây chằng chức năng nâng đỡ khớp thái dương hàm là:
Còn gọi là dây chằng đĩa (discal ligaments), gắn bờ trong và ngoài của đĩa khớp với lồi cầu. Dây chằng bên trong gắn méo trong của đĩa với cột trong của lồi cầu. Dây chằng bên ngoài gắn mép ngoài của đĩa với cột ngoài của lồi cầu. Đây là những dây chằng thực sự, chia khớp từ trong ra ngoài thành các khoang khớp trên và dưới. Chức năng của chúng là hạn chế vận động của đĩa khỏi lồi cầu và làm cho đĩa di chuyển thụ động với lồi cầu khi nó trượt ra trước và ra sau. Những dây chằng này cho phép đĩa được xoay ra trước và ra sau trên diện khớp của lồi cầu, đảm bảo vận động bản lề của khớp thái dương hàm.
Toàn bộ khớp thái dương hàm được bao quanh bởi dây chằng bao khớp. Các sợi của dây chằng bao khớp được gắn ở trên với xương thái dương dọc theo bờ của diện khớp (hõm hàm dưới) và gờ khớp. Ở phía dưới, các sợi của dây chằng bao khớp gắn với cổ lồi cầu.
Dây chằng nbao khớp kháng lại các lực trong, ngoài, hoặc dưới để tránh tách trật khớp. Dây chằng bao khớp bao quanh khớp, lưu giữ dịch khớp. Dây chằng bao khớp được phân bố thần kinh và cung cấp phản hồi cảm thụ bản thể về tư thế và vận động của khớp.
Dây chằng thái dương hàm là phần bên ngoài của bao khớp dày lên, và có hai phần, một phần chéo bên ngoài và một phần nằm ngang bên trong.
Phần chéo chống lại sa xuống quá mức của lồi cầu và do đó hạn chế mức độ mở miệng. Phần ngang bên trong hạn chế vận động ra sau của lồi cầu và đĩa khớp. Khi một lực tác động lên hàm dưới làm đẩy lệch lồi cầu ra sau, phần dây chằng này sẽ căng và phòng lồi cầu di chuyển ra vùng sau của hõm khớp, bảo vệ mô sau đĩa khỏi chấn thương.
Hai dây chằng phụ của khớp thái dương hàm là:
Dây chằng này chạy từ gai xương bướm đến đến lưỡi xương hàm dưới (lồi xương nhỏ ở mặt trong của ngành hàm dưới). Nó không có tác dụng hạn chế đáng kể lên vận động của hàm.
Dây chằng này chạy từ mỏm trâm, xuống dưới và ra trước đến góc và bờ sau của ngành hàm. Dây chằng này căng khi hàm được đưa ra trước và chùng khi hàm mở. Dây chằng này do đó hạn chế vận động đưa ra trước quá mức của xương hàm.
Bao gồm dây chằng đĩa- xương búa (DML, discomalleolar ligament), phát xuất từ xương búa (malleus, một trong các xương nhỏ của tai giữa) và chạy đến bờ trong mô sau đĩa của khớp thái dương hàm, và dây chằng búa trước (AML, anterior malleolar ligament), phát xuất từ xương búa và kết nối với lưỡi của xương hàm dưới qua dây chằng bướm hàm. Các dây chằng tai- hàm dưới có thể liên quan đến chứng ù tai và các triệu chứng khác của tai liên quan đến rối loạn khớp thái dương hàm.
Khớp thái dương hàm có thể có nhiều vận động khác nhau, đó là nâng, hạ hàm, đưa hàm sang bên (xảy ra cả bên phải và trái), đưa hàm ra sau (retrusion) và ra trước (protrusion).
Nhai và nói đòi hỏi sự kết hợp của các vận động hàm với các hướng khác nhau.
Tầm vận động bình thường:
Tư thế nghỉ của khớp thái dương hàm là miệng hơi mở, môi kề nhau và răng không chạm nhau. Tư thế khớp khoá là nghiến chặt răng.
XEM VIDEO:
1. TỔNG QUAN VÀ NGUYÊN TẮC Phục hồi chức năng (PHCN) tim mạch là chiến…
Thang theo dõi phát triển trẻ em CDPS: Kết quả Pilot 1 và mời góp…
Sinh cơ học không khô khan như những con số. Đó là câu chuyện về…
Hướng dẫn tập luyện cụ thể cho bệnh nhân mắc bệnh Parkinson
Ôn giải phẫu sinh lý Tim mạch theo định hướng lâm sàng, phần 1