PHI LỘ
Vừa rồi, có một bệnh nhân đau vùng phức hợp (CRPS) sau gãy đầu dưới xương quay đến khám, nhân đọc lại bài đã viết về rối loạn này (gồm 2 bài về chẩn đoán và điều trị), tôi dịch bổ sung kỹ thuật trị liệu tưởng tượng vận động từng nấc này, để bạn đọc có thể áp dụng trên lâm sàng.
XEM THÊM: HỘI CHỨNG ĐAU VÙNG PHỐI HỢP (CRPS). PHẦN 1: BỆNH LÝ VÀ CHẨN ĐOÁN
HỘI CHỨNG ĐAU VÙNG PHỐI HỢP (CPRS). PHẦN 2: CÁC CHỌN LỰA ĐIỀU TRỊ
Tưởng tượng Vận động Từng nấc (Graded Motor Imagery (GMI) là một chương trình điều trị nhằm mục đích kích hoạt tuần tự các vỏ não vận động chính và tiền vận động thông qua ba bước:
GMI được phát triển bởi Moseley et al. (nhóm NOI, Neuro Orthopaedic Institute, Australasia)) như một phương pháp điều trị nhằm xử lý đau và chức năng ở bệnh nhân đau vùng phối hợp (CRPS) mạn tính, tuy nhiên kỹ thuật này cũng đã được áp dụng cho các rối loạn vận động và đau phức tạp khác.
Link trang GMI của NOIgroup:
GMI về cơ bản là các bài tập cho não nhằm giải quyết những thay đổi ở vỏ não liên quan đến đau và rối loạn chức năng vận động. Mỗi thành phần nhắm vào một vùng/chức năng não khác nhau. Các nhà nghiên cứu tin rằng hiệu quả có liên quan đến sự chú ý bắt buộc dành cho chi bị ảnh hưởng, giảm sợ hãi khi vận động, tăng sự ức chế sợi dẫn truyền lớn và tái tổ chức sự không phù hợp của cảm giác – vận động.
Trình tự này cho phép vỏ não tiền vận động được kích hoạt mà không kích hoạt các mạng lưới vỏ não khác liên quan đến vận động. Các vận động tưởng tượng sử dụng các tế bào thần kinh gương (mirror neurons), được cho là chiếm khoảng 25% các neuron của não. Các tế bào này bắt đầu hoạt động khi chúng ta nghĩ đến vận động hoặc quan sát vận động.
GMI là mô hình điều trị ‘từ trên xuống’ (top-down), nhấn mạnh tầm quan trọng của việc giải quyết những thay đổi ở vỏ não.
Lưu ý về tính mềm dẻo của thần kinh: Các kết nối và đáp ứng của vỏ não cục bộ liên tục được tổ chức lại do sự thay đổi đầu vào ở ngoại vi và trung tâm. Nói cách khác, mọi thứ bạn làm và mọi thứ bạn không làm đều định hình nên bộ não của bạn. XEM THÊM: TÍNH MỀM DẺO THẦN KINH VÀ CÁC NGUYÊN LÝ CỦA TÍNH MỀM DẺO
GMI có thể được sử dụng cho bất kỳ tình trạng nào mà vỏ não cảm giác – vận động bị ảnh hưởng. Vỏ não cảm giác – vận động của bộ phận cơ thể bị ảnh hưởng đã được chứng minh là ít hoạt động hơn trong cả đau CRPS và đau chi ma. Trong đau mạn tính, người ta cũng quan sát thấy những thay đổi trong bản đồ vỏ não của bộ phận cơ thể bị ảnh hưởng, cũng như hoạt động kém của các tế bào thần kinh gương.
Mặc dù GMI ban đầu được phát triển để điều trị CRPS mạn tính, nhưng các nghiên cứu đã chứng minh tính hiệu quả của nó trong việc điều trị các tình trạng sau:
Không sử dụng, hoặc thận trọng khi sử dụng kỹ thuật tiếp cận GMI trong các trường hợp sau:
Mỗi bước được áp dụng trong khoảng 2 tuần (hoặc cho đến khi bệnh nhân đáp ứng các tiêu chí để tiến triển) trước khi chuyển sang bước tiếp theo. Trình tự các thành phần rất quan trọng để nhắm mục tiêu một cách có hệ thống vào hệ thống vỏ não nhằm cho phép tái tổ chức vỏ não. Cần điều chỉnh các bước sao cho bệnh nhân ít bị đau nhất trong quá trình thực hiện.
Phân biệt trái/phải là quá trình nhận biết một bên của cơ thể là khác biệt với bên kia và được tập luyện bằng cách xem các hình ảnh của chi thể bên trái và bên phải. Không thể nhận biết chính xác chi bị ảnh hưởng có liên quan đến sự gián đoạn của các đường truyền cảm giác và vận động. Luyện tập phân biệt phải trái nhằm mục đích thiết lập sự đại diện vỏ não của bộ phận cơ thể một cách chính xác- điều này giúp đảm bảo hiệu quả tối ưu với việc tập luyện vỏ não tiếp theo.
Tưởng tượng vận động rõ ràng là quá trình nghĩ về vận động mà không thực sự vận động chi thể. Bằng cách tưởng tượng các vận động, các vùng não tương tự như những vùng não liên quan đến vận động thực tế sẽ được kích hoạt. Vì vậy, các vận động tưởng tượng có thể giúp rèn luyện não hướng đến vận động. Điều này rất hữu ích cho những bệnh nhân gặp khó khăn bắt đầu vận động, hoặc những bệnh nhân có chất lượng vận động kém.
Ví dụ: nếu đi lại một khoảng ngắn (như ngang qua một căn phòng) thường gây ra cảm giác đau, GMI sẽ giúp bệnh nhân tưởng tượng việc đứng dậy khỏi ghế, sau đó khi não đã được dạy rằng hành động này không gây đau, tưởng tượng vận động có thể chuyển sang tưởng tượng di chuyển hai chân, đi về phía trước, và dần dần tiếp tục cho đến khi bệnh nhân tưởng tượng mình đã đi được đến hết căn phòng. Một khi bộ não của đã học được rằng hành động này không kèm với đau đớn, người bệnh có thể đi lại trong phòng mà không bị đau! Bộ não và hệ thống thần kinh của họ nhận ra rằng phản ứng bảo vệ cơn đau không còn cần thiết nữa.
MVF sử dụng vận động của phần cơ thể không bị ảnh hưởng để ‘đánh lừa’ não, làm não nghĩ rằng bộ phận bị ảnh hưởng đang vận động. Bằng cách đặt chi bị ảnh hưởng phía sau một cái gương và nhìn vào hình ảnh phản chiếu các vận động của bên không bị đau, não nghĩ rằng bên bị đau đang “được tập luyện”. Mặc dù liệu pháp gương có thể được sử dụng một cách riêng biệt, nhưng hiệu quả của nó có thể được nâng cao trước tiên bằng cách thiết lập khả năng phân biệt trái/phải và tưởng tượng các vận động.
XEM THÊM: CASE STUDY PAIN 20: ĐAU CHI MA VÀ LIỆU PHÁP GƯƠNG
Video sau đây trình bày quá trình của MVF:
Bảng 1. Những điều nên làm và không nên làm
Nên | Không nên |
---|---|
Cảnh báo bệnh nhân rằng có thể cảm thấy lạ và họ có thể dừng lại bất cứ lúc nào. | Ngồi quá xa về phía sau, dẫn đến lộ rõ cả hai cánh tay |
Tháo đồ trang sức/đồng hồ | Tiếp tục nếu triệu chứng nặng hơn |
Dành thời gian để bệnh nhân nhìn vào hình ảnh phản chiếu cho đến khi họ bị thuyết phục về ảo ảnh và cảm thấy thoải mái với nó | Thực hiện các vận động một bên/không đồng bộ |
Bài viết được dịch chủ yếu từ Physio-pedia.com, có tham khảo các tài liệu khác.
XEM THÊM VIDEO:
Bài viết trình bày tổng quan về Phương Pháp Phân Tích Hành Vi Ứng Dụng…
Bài viết trình bày các thay đổi sinh lý của mảnh ghép sau phẫu thuật,…
Thành tựu này đặc biệt có ý nghĩa đối với những bệnh nhân bị liệt…
Bài viết này trình bày tổng quan về giải phẫu các động mạch não và…
Bài viết này cung cấp cái nhìn tổng quan về EBM, các nguyên tắc cơ…