Viêm dính bao khớp vai (Adhesive Capsulitis, AC) là một tình trạng viêm ngấm ngầm, đặc trưng bởi đau và giảm dần tầm vận động (ROM) thụ động hoặc chủ động của khớp ổ chảo- cánh tay do quá trình xơ hóa tiến triển và cuối cùng là co rút bao khớp vai.
Bệnh được bác sĩ Simon-Emmanuel Duplay mô tả lần đầu tiên vào năm 1872, và đã đặt tên là “viêm quanh khớp bả vai-cánh tay”. Thuật ngữ “vai đông cứng” sau đó được Earnest và Codman đặt ra vào năm 1934 để mô tả tình trạng mất vận động khớp vai ở những bệnh nhân mắc bệnh này. Năm 1945, Julius Neviaser đưa ra tên mới là “Viêm dính bao khớp vai” do sự hình thành các thay đổi viêm và xơ được quan sát thấy trong bao khớp và túi thanh dịch lân cận.
Viêm dính bao khớp vai có thể là nguyên phát hoặc thứ phát. Bệnh nguyên phát (vô căn) có thể xảy ra một cách tự phát mà không có bất kỳ sự kiện kích thích cụ thể nào. Viêm dính bao khớp vai nguyên phát thường kết hợp với các bệnh lý khác như đái tháo đường, rối loạn chức năng tuyến giáp, rối loạn lipid máu, co rút Dupuytren, bệnh tự miễn và các can thiệp phẫu thuật (chẳng hạn như mổ bóc tách vùng nách do bệnh ác tính) .
Dạng thứ phát của bệnh thường sau chấn thương hoặc tổn thương trực tiếp đến vai, chẳng hạn như phẫu thuật, gãy xương, rách chóp xoay hoặc chấn thương khớp nặng khác.
Bảng. Các bệnh và tình trạng liên quan đến Viêm dính bao khớp thứ phát
Tỷ lệ mắc Viêm dính bao khớp vai trong dân số chung được báo cáo là 3-5% và lên đến 20% ở những người mắc bệnh tiểu đường. Viêm dính bao khớp vai có tỷ lệ mắc cao nhất từ 40 đến 60 tuổi. Nữ giới bị nhiều hơn nam giới gấp 4 lần. Vai không thuận thường bị ảnh hưởng nhiều hơn, và 40-50% trường hợp đau cả hai vai.
20 đến 30% bệnh nhân có tiền sử chấn thương ở vai, và một nghiên cứu báo cáo rằng hơn 60% bệnh nhân Viêm dính bao khớp vai có bệnh lý cơ trên gai.
Viêm dính bao khớp vai liên quan đến quá trình viêm và sau đó là sự tăng sinh của nguyên bào sợi phản ứng tại bao khớp dẫn đến sự dày lên và co rút lại của bao khớp, một đặc trưng của bệnh. Sự giải phóng ban đầu của các cytokine gây viêm (Interleukins, TNF-a, COX-1 & 2) và các tế bào (tế bào T, tế bào B, tế bào Mast) đóng một vai trò quan trọng trong quá trình xơ hóa về sau của bệnh. Các đặc điểm mô học cho thấy sự pha trộn của collagen loại I và loại II và sự mất cân bằng giữa sự thoái giáng, tu sửa và tái tạo mô cơ chất (matrix) ngoại bào.
Các phát hiện giải phẫu bao gồm mất lớp hoạt dịch của bao khớp và giảm tổng thể tích bao khớp. Các cấu trúc chính bị ảnh hưởng bao gồm dây chằng quạ-cánh tay (CHL) và khoảng trống chóp xoay (rotator cuff interval). Khoảng trống chóp xoay là một vùng hình tam giác giữa bờ trước của cơ trên gai và bờ trên của cơ dưới vai và chứa dây chằng ổ chảo-cánh tay trên và CHL. Cấu trúc thường bị ảnh hưởng đầu tiên là CHL ở trần của khoảng trống chóp xoay. Sự co lại của CHL có thể hạn chế chuyển động xoay ngoài của cánh tay và có thể phát hiện ở giai đoạn sớm trong Viêm dính bao khớp vai. Trong các giai đoạn sau, sự dày lên và co rút lại của bao khớp ổ chảo- cánh tay có thể hạn chế tầm vận động trong các mặt phẳng khác. Bao khớp ổ chảo- cánh tay bị căng, dày với các kết dính có thể dẫn đến xóa nếp gấp ở nách. Bao khớp xơ dính làm giảm lượng chất hoạt dịch trong khớp và giảm tổng thể tích khớp.
Xem thêm: GIẢI PHẪU CHỨC NĂNG PHỨC HỢP VAI. XƯƠNG VÀ KHỚP
và GIẢI PHẪU CHỨC NĂNG PHỨC HỢP VAI. CƠ VÀ HOẠT ĐỘNG CƠ
Dựa trên các đặc điểm qua nội soi khớp khi bệnh tiến triển từ viêm bao khớp đến xơ hoá, có thể chia thành 4 giai đoạn như sau :
GIAI ĐOẠN 1 | GIAI ĐOẠN 2 | GIAI ĐOẠN 3 | GIAI ĐOẠN 4 | |
GIAI ĐOẠN | Tiền dính | Dính | Trưởng thành | Mạn tính |
QUÁ TRÌNH BỆNH | Phản ứng viêm xơ không có dính | Tăng sinh màng hoạt dịch, dính giai đoạn đầu | Dính trưởng thành | Bao khớp bị sẹo hoá |
TẦM VẬN ĐỘNG | ROM bình thường | Mất ROM nhẹ | Hạn chế ROM nhiều | Giới hạn ROM |
TRIỆU CHỨNG | Đau về đêm, các triệu chứng không đặc hiệu có thể dễ bị chẩn đoán nhầm | Đau rõ rệt với vận động thụ động và chủ động | Ít đau hơn giai đoạn 1 và 2 | Có thể có tầm vận động không đau, nhưng đau khi vận động mạnh quá bao khớp bị sẹo hoá |
Một số tài liệu chỉ chia làm 3 giai đoạn: Đau, Đông cứng và Hồi phục
Giai đoạn Đau |
Đau khi vận động |
Đau vùng khó chỉ ra điểm đau |
Co thắt cơ |
Đau tăng về đêm và khi nghỉ |
Giai đoạn dính |
Ít đau |
Gia tăng cứng và giới hạn vận động |
Giảm đau về đêm và khi nghỉ ngơi |
Cảm giác đau ở cuối tầm vận động |
Giai đoạn hồi phục (Resolution Stage) |
Giảm đau |
Giới hạn vận động rõ với cải thiện tầm vận động dần, nhưng chậm |
Sự hồi phục tự phát nhưng thường không hoàn toàn |
Các triệu chứng trên bệnh nhân sẽ phụ thuộc vào giai đoạn của Viêm dính bao khớp vai. Ở giai đoạn đầu, bệnh nhân bắt đầu đau âm ỉ, nặng hơn vào ban đêm và tăng lên với các hoạt động đưa tay trên cao. Dần dần bệnh nhân nhận thấy đau tăng lên và kèm theo giảm tầm vận động khớp vai. Ở Giai đoạn tiếp theo, vai đông cứng, giảm tầm vận động rõ rệt ở mọi hướng và đau có chiều hướng giảm. Giai đoạn này có thể kéo dài từ 9 đến 15 tháng. Giai đoạn cuối cùng, “giai đoạn tan băng”, đặc trưng bởi giảm đau dần và tăng dần tầm vận động không đau. Một số bệnh nhân sẽ trở lại bình thường, nhưng một số bệnh nhân vẫn còn di chứng hạn chế vận động.
Xem thêm: KHÁM KHỚP VAI. PHẦN 1: CÁC BƯỚC CƠ BẢN
và KHÁM KHỚP VAI. PHẦN 2: CÁC NGHIỆM PHÁP ĐẶC BIỆT
Bệnh nhân thường bị mất ngủ do đau hoặc không ngủ được về phía bên đau. Hạn chế thực hiện các hoạt động sinh hoạt hàng ngày (ví dụ như cài áo ngực, thắt dây lưng, lấy ví trong túi quần sau, chải tóc …). Các hoạt động nghề nghiệp có thể bị hạn chế, đặc biệt là những hoạt động liên quan đến đưa tay lên cao (ví dụ: nâng hàng hoá lên cao). Các hoạt động giải trí cũng bị ảnh hưởng (như khó giao bóng hoặc ném bóng, sải tay khi bơi).
Các thang đo lượng giá chức năng vùng vai-tay:
Thông thường không cần xét nghiệm bổ sung trừ khi cần đánh giá tình trạng được xác định là yếu tố nguy cơ cao như đái tháo đường (Hemoglobin A1C), rối loạn chức năng tuyến giáp (Hormone kích thích tuyến giáp), bệnh khớp.
Mặc dù chụp X quang thường bình thường, nhưng chúng rất quan trọng để loại trừ các nguyên nhân khác và đánh giá tình trạng thoái hóa khớp và trật khớp. Phát hiện phổ biến nhất trên hình ảnh X quang là giảm mật độ xương do không sử dụng.
Chụp cộng hưởng từ (MRI) và chụp khớp cộng hưởng từ (MRA) có thể cho thấy bao khớp dày lên (>4mm), giảm khoang khớp ổ chảo- cánh tay và giảm đổ đầy khoang túi nách.
Siêu âm động cũng có thể phát hiện sự dày lên của bao khớp và hạn chế vận động trượt gân cơ trên gai.
Tiên lượng bệnh thường xấu hơn với trường hợp có các yếu tố nguy cơ kèm theo như là bệnh đái tháo đường và bệnh tuyến giáp.
Y văn ban đầu cho rằng viêm dính bao khớp vai là một bệnh tự giới hạn. Năm 1934, Codman tư vấn cho bệnh nhân của mình rằng các triệu chứng của họ sẽ giảm dần theo thời gian mà không cần điều trị trung bình trong 2 năm. Tuy nhiên, nhiều bác sĩ lâm sàng đã báo cáo các trường hợp bệnh nhân vẫn còn di chứng đau và rối loạn chức năng kéo dài sau 2 năm.
Mục tiêu điều trị phụ thuộc vào giai đoạn viêm dính bao khớp vai, nhưng mục tiêu chung là giảm đau và viêm đồng thời tăng tầm vận động của vai ở mọi mặt phẳng. Tư vấn, giáo dục bệnh nhân chiếm một vai trò quan trọng trong xử lý viêm dính bao khớp vai.
Khi kết hợp với các phương pháp điều trị khác, tập luyện phục hồi chức năng có thể mang lại kết quả tốt hơn. Các bài tập kéo dãn nhằm mục đích giảm thiểu kết dính bao khớp và cải thiện tầm vận động. Các bài tập có thể được thực hiện ở đơn vị vật lý trị liệu và/hoặc chương trình tập tại nhà tuỳ theo giai đoạn.
Các kỹ thuật tập luyện chủ yếu là kéo dãn (bao gồm cả kéo dãn PNF) và kéo nắn (di động khớp). Các bài tập kéo dãn PNF như co- nghỉ, giữ- nghỉ theo mẫu gấp D2 (gấp, dạng, xoay ngoài vai, xoay ngửa cẳng tay, duỗi cổ tay và ngón tay) có thể được sử dụng để cải thiện tầm vận động nhiều hướng. Lưu ý không tập quá mức gây tăng đau vai và tổn thương các cấu trúc quanh vai. Bên cạnh đó, các bài tập làm vững bả vai và làm mạnh các cơ chóp xoay cũng cần được chú trọng, nhất là ở giai đoạn bệnh cải thiện.
Chương trình ở nhà:
Xem thêm: CÁC BÀI TẬP PHCN CHO PHỨC HỢP VAI
và KỸ THUẬT DI ĐỘNG KHỚP PHỨC HỢP VAI
Trong điều trị Viêm dính bao khớp vai, các thủ thuật thường được thực hiện phối hợp với các buổi tập vật lý trị liệu và chủ yếu liên quan đến các phương pháp giảm đau. Các thủ thuật này có thể bao gồm tiêm corticoid vào trong khớp, chẹn dây thần kinh trên vai (suprascapular nerve block).
Một thủ thuật khác là bơm nước muối hoặc lidocaine vào bao khớp để giải dính và làm căng bao khớp (Capsular Distension). Tuy nhiên, cần nhiều nghiên cứu hơn để hiểu đầy đủ về hiệu quả của nó.
Chỉ định phẫu thuật khi điều trị bảo tồn 6-12 tháng thất bại hoặc bệnh ảnh hưởng nhiều đến chất lượng cuộc sống. Các chọn lựa phẫu thuật bao gồm kéo nắn dưới thuốc tê hoặc giải phóng bao khớp qua nội soi. Bằng chứng về chỉ định và thời điểm để phẫu thuật hoặc kỹ thuật tối ưu vẫn còn hạn chế. Biến chứng của kéo nắn gồm gãy xương, trật khớp, rách chóp xoay hoặc viền, và tổn thương đám rối cánh tay. Giải phóng bao khớp có thể gây biến chứng tổn thương thần kinh nách.
Thành tựu này đặc biệt có ý nghĩa đối với những bệnh nhân bị liệt…
Bài viết này trình bày tổng quan về giải phẫu các động mạch não và…
Bài viết này cung cấp cái nhìn tổng quan về EBM, các nguyên tắc cơ…
Bài viết trình bày kỹ thuật sóng xung kích ngoài cơ thể trong điều trị…
Dưới đây là bản điểm tin y học tháng 3/2025, tập trung vào các lĩnh…
Bài viết hướng dẫn tự xoa bóp để giảm phù bạch mạch sau phẫu thuật…
View Comments
Tiêm nong khớp vai dưới hướng dẫn siêu âm là một thủ thuật hiệu quả trong điều trị Viêm dính bao khớp vai. Đề tài này được Bộ môn Chẩn đoán hình ảnh- Can thiệp Trường ĐHY Hà Nội thực hiện thành công và rất hiệu quả Thầy!!!
https://www.ncbi.nlm.nih.gov/pmc/articles/PMC8046676/
Dịch mục 6, phần tiêm nong khớp
Tiêm nong khớp (Hydrodilatation, HD): Trong giai đoạn tăng đông muộn hoặc giai đoạn đông cứng sớm, HD khớp ổ chảo cánh tay bằng nước muối, steroid, thuốc tê cục bộ được cho là làm căng bao khớp bằng cách phá vỡ 'xơ hóa trong bao sớm ', giúp cải thiện ROM. Một lần thủ thuật tiêm nong khớp tốt hơn so với placebo trong việc cải thiện ROM, đau và chức năng trong thời gian ngắn hạn. Tuy nhiên, nhiều hơn một lần tiêm nong được lặp lại sau 2 tuần không có tác dụng bổ sung so với một tiêm nong một lần duy nhất. Tuy nhiên, HD có thể không mang lại bất kỳ lợi ích nào hơn so với tiêm steroid trong khớp.