Mã ICD 10:
Đột quỵ (stroke) là các thiếu sót thần kinh trung ương xảy ra đột ngột với các triệu chứng khu trú hơn là lan toả, các triệu chứng tồn tại quá 24 giờ hoặc tử vong trong 24 giờ, nguyên nhân do tổn thương mạch máu não (Warlow C và cộng sự. Stroke. Lancet, 2003).
Là một thuật ngữ phổ thông, hiện thuật ngữ đột quỵ càng được sử dụng phổ biến hơn trên lâm sàng và y văn, cùng với xu thế nâng cao hiểu biết của mọi người về phòng và điều trị bệnh. Do vậy, những đơn vị được thành lập chuyên biệt để điều trị hoặc phục hồi chức năng bệnh lý này được gọi là Đơn vị Đột Quỵ (Stroke Unit), Đơn vị Phục hồi chức năng Đột quỵ (Stroke Rehabilitation Unit).
Một thuật ngữ khác là tai biến mạch máu não (cerebral vascular accident, CVA) thường được sử dụng trong y văn truyền thống, hàm ý nguyên nhân và vị trí tổn thương.
Đột quỵ là bệnh lý thần kinh thường gặp nhất (chiếm >50% trường hợp nhập viện vì bệnh thần kinh cấp), là nguyên nhân hàng đầu gây bệnh tật, tử vong và giảm khả năng.
Theo thống kê gần đây của TCYTTG, tỉ lệ hiện mắc của đột quỵ ở các nước đã phát triển thay đổi từ 500600 người/100.000 dân.
Theo Lê Văn Thành và cộng sự (1994), tỷ lệ hiện mắc của đột quỵ là 416/100.000 dân, tỷ lệ mới mắc là 152/100.000 dân.
Theo các ước tính gần đây nhất, đột quỵ là nguyên nhân đứng hàng thứ hai gây tử vong trên thế giới và là nguyên nhân đứng hàng thứ ba ở các nước phát triển. Mỗi năm, đột quỵ gây khoảng 5,54 triệu trường hợp tử vong trên thế giới, hai phần ba con số này xảy ra ở những nước kém phát triển.
Đột quỵ là nguyên nhân chính gây giảm chức năng trầm trọng, lâu dài. Khoảng 1/2 bệnh nhân sống sót 3 tháng sau đột quỵ sẽ sống được 5 năm, và một phần ba sẽ sống được 10 năm. Xấp xỉ 60% người sống sót phục hồi khả năng tự chăm sóc, và 75% có thể tự đi lại. Khoảng 20% cần được chăm sóc lâu dài ở các viện, số còn lại sẽ cần sự giúp đỡ của gia đình, người thân. Một điểm cần lưu ý là giảm chức năng về tâm lý còn phổ biến hơn giảm chức năng về thể chất.
Là một nguyên nhân lớn gây giảm chức năng lâu dài, đột quỵ có tác động kinh tế – xã hội và tình cảm rất lớn đến bệnh nhân, gia đình và dịch vụ y tế. Ở Anh, gánh nặng chi phí của đột quỵ được ước tính gần bằng 2 lần gánh nặng chi phí của bệnh mạch vành.
Đột quỵ được chia thành hai thể: nhồi máu não hoặc chảy máu não.
Đúng hơn có thể chia thành 3 thể (theo ICD 10 ở trên) là xuất huyết dưới nhện, xuất huyết trong não và nhồi máu não, bởi vì biểu hiện lâm sàng và cận lâm sàng của hai thể xuất huyết có nhiều khác biệt.
Xảy ra khi một mạch máu não bị tắc hoặc nghẽn, làm cho vùng não bị thiếu máu (đột quỵ thiếu máu cục bộ) và dẫn đến hoại tử (nhồi máu).
Loại tai biến này chiếm 80%.
Trong nhóm đột quỵ do nhồi máu não,
Xảy ra khi mạch máu bị vỡ, máu chảy vào nhu mô não và các não thất.
Loại tai biến này chiếm 20%, trong đó:
Chảy máu não thường có biểu hiện rất cấp tính, rầm rộ, toàn thể, có thể gây rối loạn ý thức nhanh, hôn mê và tử vong do đó cần phải xác định sớm bằng xét nghiệm hình ảnh học (CT cấp cứu).
XEM THÊM: GIẢI PHẪU CÁC ĐỘNG MẠCH NÃO VÀ LIÊN HỆ LÂM SÀNG
Khi một động mạch trong não bị tắc, lưu lượng máu cung cấp cho vùng não đó giảm nghiêm trọng. Hệ quả là não bị thiếu oxy và năng lượng, và điều này ảnh hưởng trực tiếp đến số phận của tế bào thần kinh.
Ở trung tâm vùng thiếu máu, tức là nơi lưu lượng máu giảm xuống rất thấp, dưới 10 đến 12 ml/100g mô não mỗi phút, các tế bào nhanh chóng cạn kiệt năng lượng, mất khả năng duy trì sự sống và sẽ chết chỉ sau vài phút. Đây chính là lõi nhồi máu, vùng tổn thương không thể hồi phục.
Tuy nhiên, bao quanh lõi nhồi máu là một vùng gọi là vùng nguy kịch, penumbra, hay còn gọi là vùng “tranh tối tranh sáng”. Ở đây, máu vẫn còn nhưng không đủ để tế bào hoạt động bình thường. Các tế bào ở vùng này vẫn còn sống, và nếu được tái tưới máu kịp thời, chúng có thể hồi phục. Đây là mục tiêu chính của các phương pháp điều trị cấp cứu như tiêu sợi huyết hoặc lấy huyết khối.
Nếu không được can thiệp kịp lúc, vùng penumbra sẽ dần chết và nhập vào lõi nhồi máu. (“Time is Brain”, mỗi phút trôi qua, hàng triệu tế bào thần kinh có thể mất đi vĩnh viễn.
Về mặt sinh học, thiếu máu não gây ra một chuỗi rối loạn gọi là dòng thác thiếu máu cục bộ. Khi ATP giảm, các bơm ion ngừng hoạt động, màng tế bào bị khử cực, glutamate được phóng thích hàng loạt, và canxi tràn vào tế bào. Nồng độ canxi tăng bất thường sẽ kích hoạt các enzyme phá hủy tế bào, làm tổn thương ty thể, tạo ra gốc tự do và gây viêm. Kết quả cuối cùng là tế bào thần kinh chết, có thể theo con đường hoại tử hoặc chết theo chương trình.
Việc tái tưới máu cho vùng penumbra là rất quan trọng, nhưng không phải là yếu tố duy nhất quyết định kết cục của một ca đột quỵ. Có nhiều yếu tố sinh lý bệnh khác cũng góp phần vào quá trình tổn thương và phục hồi não.
Đầu tiên là tuần hoàn bàng hệ, đây là hệ thống các mạch máu nối tắt tự nhiên trong não. Ở những người có hệ thống này phát triển tốt, dòng máu có thể được cung cấp tạm thời cho vùng thiếu máu, giúp kéo dài thời gian sống còn của vùng penumbra và mở rộng cửa sổ điều trị. Ngược lại, nếu tuần hoàn bàng hệ kém, vùng nhồi máu sẽ lan rộng rất nhanh.
Tiếp theo là phản ứng viêm. Khi tế bào thần kinh chết do thiếu máu, não sẽ kích hoạt phản ứng viêm mạnh. Microglia được hoạt hóa, bạch cầu từ máu xâm nhập, và các chất trung gian viêm như cytokine, chemokine và gốc tự do được giải phóng. Dù ban đầu có vai trò dọn dẹp, nhưng nếu viêm quá mức sẽ gây tổn thương thứ phát, làm tình trạng bệnh nặng hơn.
Một yếu tố quan trọng khác là hàng rào máu não, một cấu trúc bảo vệ ngăn không cho các chất độc từ máu xâm nhập vào não. Khi thiếu máu kéo dài, hàng rào này bị phá vỡ, khiến huyết tương rò rỉ vào mô não, gây phù não và tăng áp lực nội sọ. Điều này cũng làm tăng nguy cơ xuất huyết chuyển dạng, đặc biệt sau khi tái tưới máu.
Cuối cùng là hiện tượng “không tái tưới máu”, hay No-Reflow. Dù đã mở được mạch máu lớn, máu có thể không đến được các mao mạch nhỏ do phù, huyết khối nhỏ hoặc co mạch. Vì vậy, một số bệnh nhân dù được tái thông vẫn không cải thiện.
Đột quỵ là một bệnh lý thần kinh xuất hiện cấp tính (giây, phút, giờ), biểu hiện lâm sàng đa dạng.
Vì tính chất cấp thiết của phát hiện kịp thời đột quỵ, cần giáo dục cộng đồng các dấu hiệu phát hiện sớm FAST (nghĩa là NHANH, người anh hùng chống đột quỵ phải phát hiện và hành động NHANH!):
Nhập viện sớm tại các cơ sở y tế phù hợp (có Đơn vị Đột quỵ) cho phép chẩn đoán xác định sớm, tiến hành can thiệp sớm nếu người bệnh ở trong cửa sổ điều trị, giảm thiểu tử vong và nhanh chóng ổn định tình trạng bệnh nhân.
Biểu hiện lâm sàng của đột quỵ thay đổi tùy theo thể bệnh, nguyên nhân, vị trí mạch máu bị tổn thương, mức độ tổn thương, giai đoạn tiến triển …
XEM THÊM: ĐỘT QUỴ. CHẨN ĐOÁN VÀ LƯỢNG GIÁ GIAI ĐOẠN SỚM
Biểu hiện thường gặp nhất của đột quỵ là liệt nửa người: yếu (hemiparesis) hoặc liệt (hemiparalysis) một tay, một chân (do tổn thương bó tháp), kèm liệt mặt.
Liệt nửa người có thể do tổn thương đối bên ở:
Biểu hiện liệt mặt, chủ yếu nửa mặt dưới, ảnh hưởng đến:
XEM THÊM: PHÂN BIỆT LIỆT MẶT TRUNG ƯƠNG VÀ NGOẠI BIÊN
Các biểu hiện khác, rất đa dạng, bao gồm các dấu hiệu khu trú và lan tỏa:
Lưu ý các dấu hiệu riêng cho xuất huyết não:
Lưu ý: Ở giai đoạn cấp, rối loạn nuốt rất thường gặp và là nguyên nhân gây biến chứng viêm phổi hít, xẹp phổi, có thể gây tử vong nếu nặng. Cần tiến hành sàng lọc và lượng giá rối loạn nuốt thường quy.
XEM THÊM: SÀNG LỌC NUỐT GUSS CHO BỆNH NHÂN ĐỘT QUỴ
Thông thường sau đột quỵ, người bệnh biểu hiện một tình trạng liệt mềm, trương lực cơ giảm. Sau một vài ngày đến một vài tuần, cùng với sự phục hồi dần của cơ lực là tình trạng gia tăng trương lực cơ (liệt cứng).
Điển hình, người bệnh ở giai đoạn này sẽ có mẫu co cứng như sau:
Mẫu co cứng điển hình này có thể góp phần gây co rút, làm hạn chế vận động khớp bất lợi cho vận động, sinh hoạt, chăm sóc của người bệnh. Do đó cần lưu ý đặt tư thế đúng sớm để phòng ngừa.
XEM THÊM: CO CỨNG (SPASTICITY): LƯỢNG GIÁ VÀ CAN THIỆP
Diễn tiến của đột quỵ có thể được chia thành các giai đoạn khác nhau như sau:
GHI CHÚ: Tính mềm dẻo của thần kinh: Khả năng của não (hoặc hệ TKTWW) tổ chức lại để hình thành các kết nối thần kinh mới ảnh hưởng đến cấu trúc và chức năng. Cho phép các tế bào thần kinh ở não bù trừ với các chấn thương và bệnh lý và điều chỉnh hoạt động của chúng để đáp ứng với các hoàn cảnh mới hoặc thay đổi trong môi trường. XEM THÊM: TÍNH MỀM DẺO THẦN KINH VÀ CÁC NGUYÊN LÝ CỦA TÍNH MỀM DẺO
Sự phục hồi ở bệnh nhân đột quỵ có thể hoàn toàn hoặc để lại một số di chứng, biến chứng cho người bệnh.
Những biến chứng này có tỉ lệ khác nhau tuỳ theo tình trạng khiếm khuyết của bệnh nhân và giai đoạn, có thể dự phòng được, và do đó cần chú trọng phòng ngừa tích cực.
XEM THÊM: ĐAU VAI SAU ĐỘT QUỴ
XEM THÊM: CO RÚT: PHÒNG NGỪA VÀ ĐIỀU TRỊ
Những đặc điểm lâm sàng và các biến chứng nếu có của một bệnh nhân đột quỵ có thể được tóm tắt đầy đủ nhất bằng cách sử dụng Khung Phân loại Quốc tế về Khuyết tật (ICF), từ đó cho ta thấy rõ bức tranh toàn cảnh về sức khoẻ của người bệnh, từ đó đề ra các mục tiêu và giải pháp can thiệp phù hợp.
XEM VIDEO:
https://www.youtube.com/watch?v=aZaJt6OdH4s
XEM THÊM: MỘT SỐ THANG ĐO LƯỢNG GIÁ HOẠT ĐỘNG CHỨC NĂNG THƯỜNG DÙNG
1. TỔNG QUAN VÀ NGUYÊN TẮC Phục hồi chức năng (PHCN) tim mạch là chiến…
Thang theo dõi phát triển trẻ em CDPS: Kết quả Pilot 1 và mời góp…
Sinh cơ học không khô khan như những con số. Đó là câu chuyện về…
Hướng dẫn tập luyện cụ thể cho bệnh nhân mắc bệnh Parkinson
Ôn giải phẫu sinh lý Tim mạch theo định hướng lâm sàng, phần 1