Bài viết chỉ đề cập đến những vấn đề liên quan đến PHCN bệnh nhân chấn thương sọ não, không bao gồm các thông tin liên quan đến chẩn đoán và xử trí cấp cứu, ngoại khoa.
Chấn thương sọ não (CTSN) là tác động lên não từ một lực vật lý bên ngoài dẫn đến khiếm khuyết, khuyết tật chức năng hoặc điều chỉnh không phù hợp về tâm lý xã hội tạm thời hoặc vĩnh viễn.
Chấn động não (concussion): “một hội chứng lâm sàng đặc trưng bởi sự thay đổi tức thời và nhất thời trong chức năng não, bao gồm thay đổi trạng thái tinh thần và mức độ ý thức, do tác động lực cơ học hoặc chấn thương”.
Quá trình sinh lý bệnh của CTSN thường được chia thành tổn thương nguyên phát, là tổn thương não gây ra tại thời điểm bị tác động và tổn thương thứ phát, có thể được xem là tổng hợp của tổn thương sinh hóa hoặc sinh lý phát triển trong khoảng thời gian hàng giờ, ngày, tuần và có lẽ hàng tháng sau tổn thương ban đầu.
Độ trầm trọng của chấn thương | Điểm hôn mê Glasgow | Thời gian quên sau chấn thương (PTA) | Thời gian mất ý thức (LOC) |
---|---|---|---|
Nhẹ | 13-15 | <1 ngày | < 30 phút |
Vừa | 9-12 | 1-6 ngày | 30 phút – 24 giờ |
Nặng | 3-8 | >= 7 ngày | >24 giờ |
Các triệu chứng có thể thay đổi tùy theo mức độ nghiêm trọng của chấn thương và giai đoạn hồi phục. Bệnh sử của bệnh nhân cần bao gồm tóm tắt chi tiết về cơ chế chấn thương, các bệnh lý kèm theo, thang điểm Hôn mê Glasgow ban đầu, thời gian hôn mê (nếu có) và thời gian mất trí nhớ sau chấn thương. Tuy nhiên, điểm số Glasgow Coma Scale có thể không hoàn toàn chính xác bởi các yếu tố gây nhiễu như chấn thương tủy sống đồng thời, thuốc an thần, đặt ống nội khí quản hoặc các chấn thương liên quan khác. Các chấn thương ngoài sọ (chẳng hạn như gãy xương tay chân, chấn thương lồng ngực hoặc bụng), xảy ra trong khoảng 35% các trường hợp, có liên quan đến tỷ lệ tổn thương não thứ phát cao hơn.
Những người bị chấn động não (nghĩa là CTSN nhẹ) thường phàn nàn nhất về:
Bệnh nhân bị chấn thương nặng và rối loạn ý thức đáng kể thường có thể không có triệu chứng chủ quan. Sau chấn thương não nặng, nhiều người bệnh CTSN có thể tiến triển qua các giai đoạn ý thức khác nhau bao gồm các giai đoạn hôn mê, tình trạng thực vật (Vegetative State, VS), Quên sau Chấn thương (PTA) cho đến khi họ trở lại trạng thái ý thức đầy đủ. Một số người bệnh sẽ vẫn còn ở trong tình trạng thực vật và có thể được xem là rối loạn ý thức kéo dài (prolonged disorders of consciousness, PDOC), nghĩa là tồn tại lâu hơn 4 tuần.
Sau giai đoạn hồi phục cấp tính, những người bị CTSN vừa hoặc nặng có thể có các triệu chứng bao gồm co giật, co cứng, co rút, thay đổi thị giác, xoàng đầu hoặc chóng mặt và thay đổi khứu giác. Những dấu hiệu này có thể là kết quả của chấn thương dây thần kinh sọ hoặc rối loạn chức năng xử lý trung tâm. Cũng có thể có các triệu chứng của rối loạn thần kinh tự chủ (dysautonomia) khi theo dõi ngoại trú. Hội chứng này được đặc trưng bởi tăng nhiệt độ cơ thể, nhịp tim nhanh, thở nhanh, tăng trương lực và đổ mồ hôi nhiều. Các triệu chứng muộn có thể bao gồm giảm trí nhớ, rối loạn chức năng điều hành, đau đầu, khó ngủ, tâm trạng dễ thay đổi, trầm cảm, thờ ơ, khó chú ý, ức chế trong quan hệ xã hội, rối loạn chức năng tình dục, lo lắng, bốc đồng, mệt mỏi và khó kiểm soát vận động thô và vận động tinh.
Thăm khám đầy đủ một bệnh nhân CTSN cần bao gồm lượng giá tất cả các khiếm khuyết về nhận thức, hành vi, thần kinh, và cơ xương khớp. Cần theo dõi diễn tiến các triệu chứng thường xuyên trong quá trình PHCN vì tình trạng thần kinh nặng lên có thể chứng tỏ bệnh lý nội sọ mới, và sự cải thiện hàm ý khả năng cải thiện chức năng.
Lượng giá về hoạt động thể chất của những người bệnh CTSN cần bao gồm:
XEM THÊM: CHỨC NĂNG ĐIỀU HÀNH VÀ RỐI LOẠN CHỨC NĂNG ĐIỀU HÀNH.
Tổn thương cột sống cổ có thể phối hợp với CTSN, đặc biệt ở những bệnh nhân có điểm Hôn mê Glasgow dưới 8 và có thể là nguyên nhân của một số triệu chứng của bệnh nhân. Cần phát hiện sớm để đánh giá chính xác mức độ nghiêm trọng của tổn thương và xác định chương trình điều trị.
Kết hợp thăm khám bởi một chuyên gia tâm lý- tâm thần có vai trò quan trọng trong đánh giá chính xác các khiếm khuyết về nhận thức, hành vi và hỗ trợ điều trị khi những vấn đề này là quan trọng.
Các nghiên cứu và hướng dẫn trước đây đã khuyến nghị chụp cắt lớp vi tính (CT) cho tất cả bệnh nhân CTSN có thang điểm Hôn mê Glasgow là 14 và 15 khi có các yếu tố nguy cơ, chẳng hạn như nôn, lớn tuổi, thời gian mất trí nhớ, cơ chế chấn thương, suy giảm chức năng thần kinh hoặc dùng thuốc chống đông máu (Bảng). CT sọ não cũng được sử dụng để theo dõi diễn tiến và đánh giá não úng thuỷ. MRI có độ phân giải cao hơn CT, có thể cung cấp thông tin bổ sung về các tổn thương và theo dõi các thay đổi theo thời gian.
Nôn mửa |
Đau đầu dữ dội |
Tuổi> 60 tuổi |
Rối loạn đông máu hoặc dùng thuốc chống đông |
Chấn thương trên xương đòn với các dấu hiệu lâm sàng của vỡ xương sọ |
Tiếp tục quên (mất trí nhớ) sau chấn thương hoặc quên ngược chiều (retrograde amnesia) lâu hơn 30 phút |
Không rõ cơ chế chấn thương hoặc nhiễm độc với ma túy hoặc rượu |
Tại thời điểm theo dõi bệnh nhân ngoại trú, có thể cần phải nhắc nhở bệnh nhân và người chăm sóc của họ về những hạn chế của các kỹ thuật chẩn đoán này và nên xem các khả năng chức năng của bệnh nhân như là thước đo quan trọng về mức độ tổn thương. Nói chung, theo dõi hình ảnh học tiếp theo chỉ hữu ích nếu bệnh nhân có tiến triển quá chậm hoặc có biểu hiện suy giảm chức năng. Hình ảnh học trong trường hợp này có thể hữu ích để xác định các tổn thương mới hoặc đang lan rộng. Nếu không, hình ảnh học thường ít có ích lợi.
Việc sử dụng chất đánh dấu sinh học để lượng giá mức độ tổn thương não toàn bộ và xác định vị trí tổn thương não là rất hứa hẹn, mặc dù ít được sử dụng trên lâm sàng thường lệ. Những chất đánh dấu này có thể hữu ích ở những bệnh nhân CTSN nhẹ với hình ảnh học bình thường, cũng như ở những bệnh nhân không thể đánh giá chính xác mức độ nghiêm trọng của tổn thương do các yếu tố gây nhiễu đã đề cập ở trên.
Các chất đánh dấu sinh học quan trọng liên quan đến nhận thức bao gồm acetylcholine, glutamate, dopamine, serotonin (5-HT), axit gamma aminobutyric, chất P (SP), amyloid-β (Aβ) và protein dưỡng thần kinh S100B. Những dấu ấn này có thể sớm được sử dụng lâm sàng như một phương pháp hỗ trợ chẩn đoán thần kinh trong lượng giá sớm tổn thương nguyên phát và tiến triển trong chấn thương sọ não và thiếu máu não cục bộ.
Các nghiên cứu chẩn đoán ban đầu có thể cung cấp thông tin về mức độ trầm trọng của chấn thương và sẽ có ý nghĩa tiên lượng.
Bệnh nhân có thể gặp khó khăn với khả năng vận động di chuyển và tự chăm sóc bản thân do yếu cơ hoặc điều hợp kém ở chi trên hoặc chi dưới. Khả năng di chuyển an toàn cũng có thể bị cản trở do nhận thức kém, bao gồm các khiếm khuyết trong lập kế hoạch và kiểm soát xung động kém.
Nhiều bệnh nhân thường có những thay đổi tinh vi hoặc rõ rệt về tính tình làm thay đổi mối quan hệ với những người khác. Các vấn đề có thể là bắt đầu phản ứng, gây hấn bằng lời nói hoặc thể chất, thay đổi kiểm soát cảm xúc, ngăn cản xã hội, trầm cảm, thờ ơ, giảm cảm giác về giá trị bản thân và thay đổi chức năng tình dục.
Bệnh nhân thường không thể trở lại làm việc ở mức chức năng trước đây của họ. Do đó, họ có thể phải chịu áp lực kinh tế đáng kể và có thể gặp khó khăn trong các mối quan hệ của họ, bao gồm cả hôn nhân và gia đình. Các thành viên trong gia đình có thể hữu ích trong việc xác định các vấn đề như cách ly xã hội, trầm cảm và giận dữ.
XEM THÊM: CỐT HOÁ LẠC CHỖ : BỆNH NGUYÊN, CHẨN ĐOÁN VÀ XỬ TRÍ
XEM THÊM: CASE STUDY PHYSIOTHERAPY 1.4 BỆNH NHÂN CHẤN THƯƠNG SỌ NÃO, GIAI ĐOẠN CẤP
XEM TIẾP: CHẤN THƯƠNG SỌ NÃO. PHẦN 2: ĐIỀU TRỊ VÀ PHỤC HỒI CHỨC NĂNG
Bài viết này sẽ trình bày những điểm cơ bản của thấu nhiệt (sóng ngắn,…
Kính gửi Quý Bệnh Nhân, Phẫu thuật thay khớp háng là một phương pháp điều…
Bài viết trình bày tổng quan về Phương Pháp Phân Tích Hành Vi Ứng Dụng…
Bài viết trình bày các thay đổi sinh lý của mảnh ghép sau phẫu thuật,…
Thành tựu này đặc biệt có ý nghĩa đối với những bệnh nhân bị liệt…