TÂM LÝ HỌC ỨNG DỤNG: MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM TÂM LÝ TÌNH DỤC CỦA CON NGƯỜI

Cập nhật lần cuối vào 28/09/2023

Hãy yêu và làm điều gì bạn muốn.

Saint Augustin

Tình dục là một trong những động lực cơ bản đằng sau của mọi cảm xúc, suy nghĩ và hành vi. Nó là một phương tiện để duy trì nòi giống, thể hiện các đặc điểm tâm lý và xã hội của bản thân, và định hướng sự thu hút chú ý với người khác. Hơn nữa, nó còn định hình não bộ và cơ thể để tìm kiếm niềm vui sướng khoái lạc. Mặc dù tình dục hết sức quan trọng đối với mỗi chúng ta, việc bàn luận và nghiên cứu về nó vẫn thường được xem là một điều cấm kỵ và hiểu biết của nhiều người về tâm lý tình dục vẫn còn rất mơ hồ.

Bài viết nhằm cung cấp thông tin và tạo cơ hội cho bạn suy nghĩ cởi mở và khách quan về tình dục. Không hề xấu hổ hay che dấu, chúng ta sẽ xem xét các khía cạnh cơ bản của tình dục của con người một cách khoa học – bao gồm giới tính, giới, xu hướng tình dục và các hành vi tình dục.

Mục lục

LỊCH SỬ CỦA NGHIÊN CỨU KHOA HỌC VỀ TÌNH DỤC

Lịch sử tình dục của con người cũng lâu như lịch sử loài người. Từ khi con người có quan hệ tình dục, con người đã sáng tạo nghệ thuật, viết và nói về nó. Một số hiện vật được phục hồi sớm nhất từ ​​các nền văn hóa cổ đại được cho là vật tổ sinh sản (fertility totems). Kinh Kama Sutra của người Hindu (400 TCN đến 200 CN) – một văn bản cổ xưa bàn về tình yêu, ham muốn và khoái lạc – bao gồm hướng dẫn cách thực hiện quan hệ tình dục. Các quy tắc, lời khuyên và những câu chuyện về tình dục cũng có trong kinh Koran của người Hồi giáo, Torah của người Do Thái và Kinh thánh của Cơ đốc giáo.

Một hình ảnh trên một chiếc cốc uống nước của người Hy Lạp cổ đại có cảnh hai người yêu nhau đang hôn nhau. Khoảng năm 480 trước Công nguyên. Ảnh của Marie-Lan Nguyen

Ngược lại, con người mới nghiên cứu về giới tính một cách khoa học trong khoảng 125 năm gần đây. Các cuộc điều tra khoa học đầu tiên về tình dục sử dụng phương pháp nghiên cứu trường hợp. Sử dụng phương pháp này, bác sĩ người Anh Henry Havelock Ellis (1859-1939) đã xem xét các chủ đề khác nhau trong tình dục, bao gồm cả kích thích và thủ dâm. Từ năm 1897 đến năm 1923, những phát hiện của ông đã được xuất bản trong một bộ sách gồm bảy tập có tựa đề Những nghiên cứu về tâm lý tình dục (Studies in the Psychology of Sex). Trong số những phát hiện đáng chú ý nhất của ông là người chuyển giới khác biệt với người đồng tính. Các nghiên cứu của Ellis đã đưa ông trở thành người ủng hộ quyền bình đẳng cho phụ nữ và giáo dục toàn diện về tình dục con người trong các trường công lập.

Sử dụng các nghiên cứu trường hợp, nhà thần kinh học người Áo Sigmund Freud (1856-1939) được công nhận là nhà khoa học đầu tiên liên kết giới tính với sự phát triển lành mạnh và nhận ra con người có hoạt động tình dục trong suốt cuộc đời của họ, bao gồm cả thời thơ ấu. Freud (1923) cho rằng con người tiến triển qua năm giai đoạn phát triển tâm lý: miệng, hậu môn, dương vật tượng trưng (phallic), tiềm ẩn và phát dục. Theo Freud, mỗi giai đoạn này có thể trải qua một cách lành mạnh hoặc không lành mạnh. Nếu phát triển không phù hợp, cá nhân có thể bị các vấn đề tâm lý, chẳng hạn như lãnh cảm, bất lực hoặc nghiêm túc quá mức. 

Nhà sinh vật học người Mỹ Alfred Kinsey (1894-1956) thường được xem là cha đẻ của nghiên cứu tình dục con người. Kinsey là một chuyên gia nổi tiếng thế giới về ong bắp cày nhưng sau đó ông chuyển sang nghiên cứu về con người. Sự thay đổi này xảy ra vì ông muốn dạy một khóa học về hôn nhân nhưng nhận thấy thiếu dữ liệu về hành vi tình dục của con người. Ông tin rằng những kiến ​​thức tình dục trước đó là sản phẩm của suy đoán và chưa bao giờ thực sự được nghiên cứu một cách có hệ thống hoặc không thiên vị. Ông đã tự mình thu thập thông tin bằng phương pháp khảo sát và phỏng vấn hơn 18.000 người về lịch sử tình dục của họ. Nhiều hành vi tình dục được các nhà khoa học hiện nay nghiên cứu phần nào dựa trên công trình nghiên cứu của Kinsey.

Ngày nay, các nghiên cứu khoa học về tình dục vẫn tiếp tục. Đó là một chủ đề bao gồm trong nhiều lĩnh vực khác nhau, bao gồm nhân chủng học, sinh học, thần kinh học, tâm lý học và xã hội học.

GIỚI TÍNH, GIỚI VÀ ĐỊNH HƯỚNG TÌNH DỤC

Khi điền đơn nhập học hay xin việc, bạn được yêu cầu ghi rõ tên, địa chỉ và ngày sinh của bạn. Ngoài ra, mẫu đơn thường hỏi về giới tính (sex) hoặc giới (gender) của bạn. Chúng ta thường sử dụng các thuật ngữ “giới tính” và “giới” thay thế cho nhau. Tuy nhiên, trong cách sử dụng hiện đại, các thuật ngữ này khác biệt với nhau. 

Giới tính (Sex) mô tả phương cách duy trì nòi giống. Giới tính bao gồm các cơ quan sinh dục, chẳng hạn như buồng trứng – xác định là người nữ – hoặc tinh hoàn – xác định là người nam. Điều thú vị là, việc xác định giới tính sinh học không phải dễ dàng như bạn nghĩ (xem phần về các biến thể trong giới tính). 

Ngược lại, thuật ngữ giới (gender) mô tả các đại diện tâm lý (bản dạng giới, gender identity) và xã hội (vai trò giới, gender role) của giới tính sinh học. Khi còn nhỏ, chúng ta bắt đầu học các chuẩn mực văn hóa cho những gì được coi là nam và nữ. Ví dụ, trẻ em có thể liên tưởng tóc dài hoặc váy với tính nữ. Sau này khi trưởng thành, chúng ta thường tuân theo những chuẩn mực này bằng cách cư xử theo những cách cụ thể về giới: là nam giới, chúng ta xây nhà; là phụ nữ, chúng ta nướng bánh (Marshall, 1989; Money và cộng sự, 1955; Weinraub và cộng sự, 1984).

Một phụ nữ nội trợ điển hình của những năm 1950 đang đứng trong bếp với chiếc tạp dề với một bàn đầy dụng cụ nấu nướng trước mặt.

Bởi vì văn hóa thay đổi theo thời gian, các ý tưởng về giới cũng vậy. Ví dụ, các nền văn hóa Âu Mỹ ngày nay gắn màu hồng với nữ tính và xanh với nam tính. Tuy nhiên, cách đây chưa đầy một thế kỷ, chính ở đó các bậc bố mẹ đã cuốn những đứa bé trai sơ sinh với tã màu hồng vì liên hệ nam tính của nó với “máu và chiến tranh”, và những đứa bé gái tã màu xanh, vì những mối liên hệ nữ tính của màu này với Đức Trinh nữ Maria (Kimmel, 1996).

Giới tính và giới là những khía cạnh quan trọng trong bản sắc (bản dạng) của một người. Tuy nhiên, chúng không cho chúng ta biết về xu hướng tình dục của người đó. Xu hướng tình dục (sexual orientation) đề cập đến sự hấp dẫn tình dục của một người đối với người khác. Trong bối cảnh xu hướng tình dục, hấp dẫn tình dục đề cập đến khả năng của một người trong việc khơi dậy hứng thú tình dục của người khác, hoặc ngược lại, sở thích tình dục mà một người cảm thấy đối với người khác.

Trong khi một số tác giả cho rằng sự hấp dẫn tình dục chủ yếu được thúc đẩy bởi sinh con đẻ cái (ví dụ, Geary, 1998), các nghiên cứu thực nghiệm chỉ ra rằng khoái cảm là động lực chính đằng sau ham muốn tình dục của chúng ta. Ví dụ, trong một cuộc khảo sát, các sinh viên đại học được hỏi, “Tại sao mọi người lại quan hệ tình dục?” . Trong số hơn 230 loại câu trả lời, hầu hết đều liên quan đến khoái cảm hơn là sinh đẻ (Meston & Buss, 2007).

NHỮNG BIẾN THỂ VỀ GIỚI TÍNH, GIỚI VÀ XU HƯỚNG TÌNH DỤC CỦA CON NGƯỜI

“Chỉ có bộ óc con người mới phát minh ra các phạm trù và cố gắng buộc các sự kiện vào các lỗ chim bồ câu tách biệt. Thế giới sống là một thể liên tục trong mỗi khía cạnh của nó. Chúng ta càng sớm học được điều này liên quan đến hành vi tình dục của con người, chúng ta càng sớm đạt được hiểu biết đúng đắn về những thực tế của tình dục.

Kinsey, Pomeroy, & Martin, 1948

Chúng ta đang sống trong thời đại mà giới tính, giới và xu hướng tình dục là những vấn đề tôn giáo và chính trị gây tranh cãi. Một số quốc gia có luật chống đồng tính luyến ái, trong khi những quốc gia khác có luật bảo vệ hôn nhân đồng tính. Vào thời điểm mà các nhóm tôn giáo và chính trị dường như có rất ít sự đồng thuận, thật hợp lý khi tự hỏi, “Điều gì là bình thường?”“Ai quyết định?” 

Cộng đồng khoa học và y học quốc tế (như Tổ chức Y tế Thế giới, Hiệp hội Y khoa Thế giới, Hiệp hội Tâm thần Thế giới, Hiệp hội Khoa học Tâm lý) xem các biến thể của giới tính, giới và xu hướng tình dục là bình thường. Hơn nữa, các biến thể về giới tính, giới và xu hướng tình dục xảy ra tự nhiên trên ở khắp các loài động vật. Chẳng hạn, hơn 500 loài động vật có xu hướng đồng tính hoặc song tính (Lehrer, 2006). 

Biến thể về giới tính

Giới tính sinh học (Biological sex) là qua những đặc điểm sinh học như bộ phận sinh dục, nhiễm sắc thể hay cơ quan sinh sản bên trong cơ thể để xác định một người là nam hay nữ.

Giới tính sinh học không chỉ bao gồm tính nam hay tính nữ mà gồm cả những người liên giới (intersex). Những người này có thể có bộ phận sinh dục của cả nam lẫn nữ hoặc có cơ quan sinh dục của nam nhưng nhiễm sắc thể bên trong cơ thể lại của nữ và ngược lại. Hơn 65.000 loài động vật là liên giới tính (intersex) – được sinh ra hoặc là thiếu vắng hoặc kết hợp một mức độ nào đó giữa các cơ quan sinh sản nam và nữ, hormon sinh dục hoặc nhiễm sắc thể giới tính (Jarne & Auld, 2006). Ở người, những người liên giới tính chiếm khoảng hai phần trăm – hơn 150 triệu người trên thế giới (Blackless và cộng sự, 2000). Mặc dù những người liên giới tính có thể có những hạn chế về thể chất (ví dụ, khoảng một phần ba người mắc “hội chứng Turner” bị dị tật tim), hầu hết đều có cuộc sống tương đối bình thường về trí tuệ, cá nhân và xã hội. Trong mọi trường hợp, những người liên giới tính là một biến thể đa dạng của giới tính sinh học.

Biến thể về bản dạng giới (hoặc bản sắc giới)

Nhiều người nhầm lẫn xu hướng tình dục với bản dạng giới vì những thái độ định kiến ​​tồn tại về đồng tính luyến ái. Trên thực tế, đây là hai vấn đề liên quan, nhưng khác nhau. 

Bản dạng giới đề cập đến cảm nhận bên trong của của một người về giới tính của mình, là nam hay nữ. Nói chung, bản dạng giới của chúng ta tương ứng với giới tính nhiễm sắc thể và kiểu hình, nhưng điều này không phải lúc nào cũng đúng. Khi các cá nhân không cảm thấy thoải mái khi xác định giới liên quan đến giới tính sinh học của họ, thì họ sẽ trải qua chứng rối loạn bản dạng giới (gender dysphoria). Chứng rối loạn bản dạng giới là một phân loại chẩn đoán trong Sổ tay chẩn đoán và thống kê các rối loạn tâm thần (DSM-5) mô tả những cá nhân không xác định giới mà hầu hết những người khác giả định họ mang. 

Hợp giới (Cisgender) là một thuật ngữ chung được sử dụng để mô tả những người có cảm nhận về bản dạng cá nhân và giới tương ứng với giới tính khi sinh của họ, trong khi người chuyển giới (transgender) là thuật ngữ được sử dụng để mô tả những người có cảm nhận về bản dạng cá nhân không tương ứng với giới tính khi sinh của họ. Do giới tính đã ăn sâu vào văn hóa nên tỷ lệ người chuyển giới rất khác nhau trên thế giới (xem Bảng 1). Mặc dù tỷ lệ người chuyển giới có sự khác biệt đáng kể giữa các nền văn hóa, nhưng người chuyển giới nữ (TGF) – những người có giới tính khi sinh là nam – là thường gặp nhất.

Quốc giaNgười chuyển giới/100.000 dân
Phần Lan0.26
Nhật1.4
Ấn độ167
Thái Lan333
Mỹ476
Malaysia1333
Bảng 1: Tỷ lệ người chuyển giới ở một số quốc gia

Nhiều người được xếp vào nhóm rối loạn bản dạng giới cố gắng sống theo những cách phù hợp với bản dạng giới của họ (thể hiện giới – gender expression). Điều này liên quan đến việc mặc quần áo khác giới và giả định một bản dạng giới đối nghịch. Những người này cũng có thể sử dụng liệu pháp hormone chuyển giới nhằm cố gắng làm cho cơ thể của họ trông giống người khác giới hơn, và trong một số trường hợp, họ chọn phẫu thuật để thay đổi hình dạng của cơ quan sinh dục bên ngoài cho giống với bản dạng giới của họ. Những người chuyển giới cố gắng thay đổi cơ thể của họ thông qua các can thiệp y tế như phẫu thuật và liệu pháp nội tiết tố được gọi là những người chuyển đổi giới tính (transsexual). Họ cũng có thể được gọi là nam sang nữ (MTF) hoặc nữ sang nam (FTM). Không phải tất cả các cá nhân chuyển giới đều chọn thay đổi cơ thể của họ: nhiều người sẽ giữ nguyên hình dạng ban đầu của họ nhưng có thể giới thiệu mình với xã hội là ở một giới khác.)

Một vũ công chuyển giới (Hijra) ở Nepal

Các biến thể của xu hướng tình dục

Xu hướng tình dục cũng đa dạng như bản dạng giới. Một số người vẫn quan niệm rằng đồng tính  (homosexual) luyến ái hiếm gặp, hoặc là không phù hợp như là dị tính luyến ái (heterosexual).

Quả thật, đây chỉ là những ý tưởng rập khuôn thường gặp và sai lệch. Nghiên cứu thấy rằng số người có quan hệ với những người cùng giới cũng có một tỉ lệ đáng kể, khoảng 20 – 25% người nam và 15 % người nữ có ít nhất một lần quan hệ đồng giới vào lúc trưởng thành, và khoảng 3 – 10% cả người nam lẫn nữ hoàn toàn đồng tính trong một thời gian khá dài (Hunt, 1974).

Thật ra, sự phân biệt giữa đồng tính và dị tính luyến ái không rõ rệt như chúng ta có thể mong đợi. Chúng chỉ đánh dấu hai điểm mốc đầu của một thang đo liên tục, và có nhiều người rơi vào đoạn giữa của chuỗi thang đo này, mà có thể được gọi là những người song tính luyến ái (bisexual), tức là bị hấp dẫn bởi những người của cả hai giới. LGBT là tên viết tắt của đồng tính nữ (Lesbian), đồng tính nam (Gay), song tính (Bisexual) và chuyển giới (Transgender). Trên thực tế, có đến 46 thuật ngữ mô tả những dạng khác nhau của xu hướng tình dục, như vô giới (asexual), toàn giới (pansexual)…

Các nhà nghiên cứu cũng nhận thấy rằng không có mối liên hệ nào giữa sở thích về tình dục và thích nghi về tâm lý (Reiss,1980). Mặc dù vậy, nhiều người vẫn nhìn đồng tính luyến ái với cái nhìn tiêu cực. Nam đồng tính luyến ái được mô tả là có tính đàn bà, hay gạ gẫm trẻ em trong khi nữ đồng tính luyến ái được hình dung đầy nam tính. Những ý tưởng rập khuôn này vẫn tồn tại gây nên thái độ sợ đồng tính luyến ái ở nhiều người. Những người đồng tính luyến ái cũng thường bị phân biệt về việc làm, bị đùa cợt chế nhạo, xúc phạm, làm cho họ phải chịu nhiều thách đố, tủi nhục và có thể để lại những sang chấn tâm lý.

Bất kể xu hướng tình dục được xác định như thế nào, nghiên cứu đã chỉ ra rằng xu hướng tình dục không phải là một sự lựa chọn, mà nó là một đặc tính tương đối ổn định của một người và không thể thay đổi. Những tuyên bố về liệu pháp chuyển đổi người đồng tính thành công đã bị cộng đồng khoa học chỉ trích từ do những lo ngại đáng kể về thiết kế nghiên cứu, tuyển dụng người tham gia thử nghiệm và giải thích dữ liệu. Do đó, không có bằng chứng khoa học đáng tin cậy nào cho thấy rằng các cá nhân có thể thay đổi xu hướng tình dục của họ (Jenkins, 2010).

Tóm tắt các khái niệm về giới tính và giới

CÁC DẠNG HÀNH VI TÌNH DỤC

Cũng như chúng ta có thể tự hỏi điều gì mô tả giới hoặc xu hướng tình dục cụ thể là “bình thường”, chúng ta có thể có những câu hỏi tương tự về các hành vi tình dục. Điều gì được xem là bình thường về mặt tình dục phụ thuộc vào văn hóa. Một số nền văn hóa hạn chế hoặc cấm đoán tình dục. Một ví dụ cực đoan được nghiên cứu vào giữa thế kỷ 20 là ở đảo Inis Beag, ngoài khơi Ireland. Cư dân đảo Inis Beag ghét khoả thân và xem tình dục là một tội ác chỉ cần cho mục đích duy nhất là sinh sản. Họ mặc quần áo khi tắm và cả khi quan hệ tình dục (Messenger, 1989). Ngược lại, tộc dân Mangaians ở đảo A’ua’u Nam Thái Bình Dương lại có văn hóa cởi mở tình dục rất cao. Trẻ trai Mangaian được khuyến khích thủ dâm. Đến 13 tuổi, họ được những người đàn ông lớn tuổi hơn hướng dẫn cách thực hiện tình dục và cách làm tăng cực khoái cho bản thân và bạn tình. Khi các trẻ trai lớn hơn một chút, hướng dẫn hình thức này được thay bằng sự huấn luyện thực hành bởi những phụ nữ lớn tuổi hơn. Các cô gái trẻ cũng được mong đợi khám phá tình dục của mình và phát triển kiến ​​thức về tình dục trước khi kết hôn (Marshall & Suggs, 1971). Những nền văn hóa này cho thấy rằng những gì được xem là hành vi bình thường về tình dục phụ thuộc vào thời gian và nơi chốn.

Thủ dâm (masturbation) là tự kích thích cơ thể bằng xúc giác để đạt khoái cảm tình dục. Trong lịch sử, thủ dâm đã từng mang lại tiếng xấu; nó được mô tả là “tự hành hạ bản thân” và được gán không đúng là nguyên nhân gây ra mất vệ sinh, làm lòng bàn tay nhiều lông, nổi mụn, gây mù lòa và nhiều tác dụng xấu khác. Hiện nay, thủ dâm được xem là một dạng biểu lộ tình dục tự nhiên hoàn toàn không có hại gì về thể chất lẫn tâm lý. Tỷ lệ thủ dâm cũng khá cao và thay đổi theo nền văn hoá: ở Mỹ, 74% nam và 48% nữ cho biết đã thủ dâm; ở Úc, 58% nam và 42% nữ; trong khi ở Ấn Độ thấp hơn, 46% và 13%. Mặc dù vậy, những thái độ tiêu cực đối với thủ dâm vẫn còn tồn tại và những người xem nó là một hành động không phù hợp về đạo đức có thể có cảm giác hối tiếc, tội lỗi nếu đã một lần thực hiện.

Quan hệ giao tình dục giao hợp (cấu) (coital sex) là thuật ngữ chỉ sự giao hợp giữa âm đạo và dương vật. Theo truyền thống, người nữ được gọi là “còn trinh” trước khi họ tham gia vào quan hệ tình dục giao hợp, và đã “mất” trinh tiết sau đó. Có sự khác biệt lớn về tần suất quan hệ tình dục giao hợp. Ví dụ, số lần quan hệ trung bình mỗi năm một người ở Hy Lạp (138) hoặc Pháp (120) cao hơn từ 1,6 đến 3 lần so với Ấn Độ (75) hoặc Nhật Bản (Durex, 2005).

Quan hệ tình dục bằng miệng (oral sex) bao gồm cunnilingus – kích thích bằng miệng đối với các cơ quan sinh dục bên ngoài của nữ và fellatio – kích thích bằng miệng đối với các cơ quan sinh dục bên ngoài của nam. Tỷ lệ quan hệ tình dục bằng miệng rất khác nhau giữa các nền văn hóa – với các nền văn hóa phương Tây, chẳng hạn như Hoa Kỳ, Canada và Áo, báo cáo tỷ lệ cao hơn (lớn hơn 75%); và các nền văn hóa phương Đông và châu Phi, chẳng hạn như Nhật Bản và Nigeria, báo cáo tỷ lệ thấp hơn (dưới 10%).

Quan hệ tình dục qua đường hậu môn (anal sex) đề cập đến sự xâm nhập vào hậu môn bằng một vật thể. Quan hệ tình dục qua đường hậu môn không chỉ “dành riêng” cho “hành vi tình dục đồng giới”, mà theo một số nghiên cứu, hơn một phần ba (khoảng 40%) cả nam và nữ dị tính luyến ái cho biết đã từng quan hệ tình dục qua đường hậu môn vào một thời điểm nào đó trong cuộc đời của họ (Chandra, Mosher, & Copen, 2011). Tỷ lệ quan hệ tình dục qua đường hậu môn rất khác nhau giữa các nền văn hóa. Ví dụ, người dân ở Hy Lạp và Ý báo cáo tỷ lệ quan hệ tình dục qua đường hậu môn cao (hơn 50%), trong khi người dân ở Trung Quốc và Ấn Độ báo cáo tỷ lệ quan hệ tình dục qua đường hậu môn thấp (dưới 15%) (Durex, 2005).

Trái ngược với các hành vi tình dục “phổ biến”, có rất nhiều hành vi tình dục thay thế. Một số hành vi trong số này, chẳng hạn như thích nhìn cảnh người khác trần truồng hoặc quan hệ (voyeurism), thích khoe đồ nơi công cộng (exhibitionism) và ấu dâm (pedophilia) được xếp loại trong DSM là các rối loạn lệch lạc tình dục (paraphilic) – những hành vi nạn nhân hoá và gây tổn hại cho người khác hoặc bản thân mình (Hiệp hội Tâm thần Hoa Kỳ, 2013). Bạo dâm (Sadism) – gây đau đớn cho người khác để trải nghiệm khoái cảm cho bản thân — và khổ dâm (masochism) – nhận nỗi đau do người khác gây ra để trải nghiệm khoái cảm cho bản thân — cũng được phân loại trong DSM là rối loạn paraphilic.

QUAN HỆ TÌNH DỤC VÀ HÔN NHÂN

Quan hệ tình dục trước khi kết hôn

Cho mãi đến gần đây quan hệ tình dục trước khi kết hôn đối với người phụ nữ, vẫn là một điều cấm kỵ lớn của xã hội. Người ta vẫn mong là cho đến đêm tân hôn, cô dâu vẫn còn giữ được trinh tiết. Ngược lại, với nam giới, xã hội lại không mong đợi như vậy. Người ta không chỉ cho phép mà còn mong người nam có kinh nghiệm tình dục trước khi kết hôn. 

Tuy nhiên, điều này có xu hướng thay đổi, và các nghiên cứu cho thấy số người nữ có quan hệ tình dục trước khi kết hôn có xu hướng gia tăng, trên thế giới và ở cả nước ta. Theo thống kê ở Hoa Kỳ, có đến 80 % phụ nữ dưới 25 tuổi đã có quan hệ tình dục trước hôn nhân (Horn, Bachrach, 1985). Ở xã hội phương Tây, tiêu chuẩn “kép” này có xu hướng bớt khắt khe hơn, nhường chỗ cho những tiêu chuẩn mới ít dựa vào tình trạng quan hệ hợp pháp giữa hai người, mà dựa nhiều hơn vào tính chất của mối quan hệ. Theo một tiêu chuẩn gọi là “được phép nếu có tình cảm”, thì hai người đều được phép có quan hệ tình dục trước khi kết hôn miễn là họ đã có một quan hệ yêu đương lâu dài, gắn bó, và ổn định (Reiss, 1980). 

Quan Hệ Tình Dục Sau Khi Kết Hôn

Về mặt số lượng, bên cạnh những yếu tố khác, cuộc sống tình dục phụ thuộc vào tuổi tác. Mặc dù số lần giao hợp trung bình ở các cặp vợ chồng là khoảng tám lần mỗi tháng, những người trẻ tuổi thường quan hệ nhiều lần hơn những người lớn tuổi. Nghiên cứu thấy rằng về mặt chất lượng, có một sự khác nhau rõ rệt giữa người này so với người khác. Với một số người, tình dục trở nên nhàm chán, đơn điệu, tẻ nhạt; trong khi với một số người khác, có một sự thức tỉnh dần dần trong hoạt động tình dục và tình dục ngày càng trở nên đầy đủ và có ý nghĩa hơn theo thời gian. Ngoài ra, các hành vi như sờ chạm, vuốt ve, hôn, kích thích bằng tay đều gây khoái lạc, cho dù chúng có đưa đến giao hợp hay không.

Ngày nay người ta biết rõ rằng tình dục vẫn là một yếu tố quan trọng ngay cả trong tuổi già. Miễn là những người cao tuổi vẫn giữ được sức khỏe tốt thì không nhất thiết phải ngừng quan hệ tình dục và các cuộc điều tra cho thấy có khoảng 10 – 20% người trên 78 tuổi vẫn quan hệ tình dục (Pfeiffer, Verwoerdt, Wary, 1968).

LỜI KHUYÊN TÂM LÝ: HÃY LỰA CHỌN

Những thay đổi trong quan niệm về thủ dâm phần nào nói lên được những khó khăn trong việc xác định tính phù hợp hay bình thường của các hành vi tình dục, xem nó là thích hợp hay là không thích hợp.

Chẳng hạn, một phương pháp xác định hành vi tình dục có thích hợp hay không và đưa vào các chuẩn mực xã hội riêng biệt. Tuy nhiên, tùy vào chuẩn mực mà một người sử dụng – hoặc là Kinh Thánh, Lời Phật dạy, một triết lý nào đó, hay là lời răn của bố mẹ mà một hành vi tình dục có thể được xem là hoàn toàn bình thường hay là lệch lạc.

Một tiếp cận khác là xem xét mức độ lệch khỏi mức trung bình của xã hội của một hành vi tình dục. Tuy nhiên, việc một hành vi tình dục nào đó ít gặp không nhất thiết hàm ý rằng nó là không phù hợp. Nếu một người nào đó thích làm tình ở phòng ăn hơn là ở trên giường ngủ, thì không có lý do gì để cho rằng người đó không bình thường.

Theo đa số các nhà tâm lý học, cách tiếp cận hợp lý nhất để hiểu hành vi tình dục nào đó có thích hợp hay không là thông qua việc xem xét các hậu quả tâm lý của hành vi đó. Như vậy, hành vi tình dục được xem là không thích hợp nếu nó gây ra cảm giác đau buồn, lo lắng, tội lỗi hay, lẽ dĩ nhiên là, nếu nó gây hại hoặc không nhận được sự đồng ý (sexual consent) của người kia.

Điều quan trọng cần nhận ra là cái đúng và cái sai, cái nên làm và cái không nên làm trong hành vi tình dục là một phản ánh của các giá trị của xã hội và của chính bản thân người đó. Do vậy, khi chúng ta bàn về những dạng biểu lộ tình dục khác nhau, cần nhớ là ít có nguyên tắc, để hướng dẫn hành vi tình dục của con người.

Như đã thấy, có nhiều dạng hành vi tình dục khác nhau, và việc chọn lựa hành vi tình dục nào là thích hợp cho bạn đôi khi không dễ dàng chút nào. Tuy nhiên, có một số điểm bạn nên xem xét trước khi tham gia vào một hoạt động liên quan đến tình dục:

Cái phổ biến không luôn luôn là thích hợp.

Cho dù một hành vi có phổ biến như thế nào đi nữa trong xã hội, nó không nhất thiết là thích hợp cho chính bạn với tư cách là một cá thể. Chỉ sau khi cân nhắc các thái độ, giá trị, niềm tin tôn giáo và đạo đức của bản thân thì bạn mới có thể chắc chắn chọn lựa nào là thích hợp

Hãy trao đổi thông tin.

Ngoại trừ trường hợp thủ dâm, mọi hành vi tình dục đều liên quan đến hai người. Vì vậy, cũng như bất cứ tương tác giữa con người khác, các ước muốn và nhu cầu có thể bị hiểu lầm hay cảm nhận sai lệch. Do đó, điều quan trọng là bạn hãy để mở mọi phương tiện giao tiếp bằng lời, hoặc không lời. Nếu bạn muốn thay đổi một điều gì đó trong quan hệ tình dục của bạn, hãy để cho người bạn tình biết điều đó.

Đừng là một người quan sát

Bạn đang tham gia vào hoạt động tình dục, vậy đừng có ý nghĩ rằng bạn cần phải đánh giá mọi động tác của bạn hay của người bạn tình như là thành công hay thất bại của một người tình. Thay vì thế, hãy hưởng thụ giây phút đó. Tình dục không phải là một cuộc thi để bạn đo khả năng diễn xuất của bạn. 

Bình thường chính là điều bạn cần làm

Như chúng ta đã thảo luận trước khi kia, một hành vi tình dục nên được xem là không thích hợp nếu nó gây ra cảm giác đau buồn, lo lắng, tội lỗi cho bạn, hay là gây hại cho một người nào khác. Ngược lại, nếu một hành vi tình dục không ảnh hưởng gì xấu đến trạng thái tâm lý của bạn và sự thoải mái của người khác, thì không có lý do gì để cho rằng hành vi đó là sai trái cả. Tình dục không phải là điều mà bạn buộc phải tham gia, cũng không phải là điều mà bạn không được thực hiện – mà là một điều có thể làm giàu cho cuộc sống của bạn, đem lại cho bạn một nguồn thỏa mãn lớn lao.

Tham khảo:   Don Lucas , Jennifer Fox. https://nobaproject.com/modules/the-psychology-of-human-sexuality
 Và một số tài liệu khác 

Trích đoạn từ Vượt qua thử thách- Ứng dụng tâm lý học trong cuộc sống,

Minh Đạt Rehab biên soạn và dịch thuật.

👋 Chào bạn!

Hãy nhập địa chỉ email của bạn để đăng ký theo dõi blog này và nhận thông báo về các bài mới qua email mỗi tuần.

MinhdatRehab

Gởi bình luận

Xin lỗi. Bạn không thể sao chép nội dung ở trang này