VÙNG NGÔN NGỮ BROCA VÀ WERNICKE: THEO DÒNG LỊCH SỬ.

Hãy nghe bài viết
Getting your Trinity Audio player ready...

Cập nhật lần cuối vào 24/11/2023

Vào giữa thế kỷ 19 ở Pháp, một chàng trai trẻ tên Louis Victor Leborgne đến sống tại Bệnh viện Bicêtre ở ngoại ô phía nam Paris. Điều kỳ lạ là từ duy nhất anh ấy có thể nói chỉ là một âm tiết duy nhất: “Tan”. Trong những ngày cuối đời, ông gặp một bác sĩ tên là Pierre Paul Broca. Cuộc trò chuyện với người đàn ông mà cả thế giới biết đến với cái tên Bệnh nhân Tan, khiến Broca hiểu rằng Leborgne có thể hiểu lời nói của người khác và cố gắng trả lời, nhưng “tan” là diễn đạt duy nhất mà ông ấy có thể thốt ra.

Sau khi Leborgne qua đời, Broca tiến hành khám nghiệm tử thi và tìm thấy một vùng não lớn ở thùy trán bị tổn thương. Kể từ đó, chúng ta biết được rằng tổn thương ở các vùng cụ thể ở bán cầu não trái sẽ tạo ra các loại rối loạn ngôn ngữ riêng biệt hay còn gọi là các chứng mất ngôn ngữ (thất ngôn). Phần thùy trán nơi có tổn thương Leborgne hiện được gọi là vùng Broca và rất quan trọng cho việc tạo ra lời nói. Những nghiên cứu sâu hơn về chứng mất ngôn ngữ đã nâng cao đáng kể kiến thức của chúng ta về cơ sở thần kinh của ngôn ngữ.

Chứng mất ngôn ngữ của Broca còn được gọi là chứng mất ngôn ngữ “không lưu loát” (non-fluent aphasia) vì khả năng phát âm bị suy giảm nhưng khả năng hiểu hầu như vẫn còn nguyên vẹn. Tổn thương ở thùy trán bên trái có thể gây ra chứng mất ngôn ngữ không trôi chảy, trong đó lời nói chậm và ngắt quãng, đòi hỏi nhiều nỗ lực và thường thiếu các từ hoặc cấu trúc câu phức tạp. Nhưng trong khi khả năng nói của họ bị suy giảm, những người mắc chứng mất ngôn ngữ không lưu loát vẫn hiểu được ngôn ngữ nói, mặc dù khả năng hiểu các câu phức tạp của họ có thể kém.

Chân dung của Pierre Paul Broca (trái) và Carl Wernicke (phải).

Ngay sau khi Broca công bố phát hiện của mình, một bác sĩ người Đức, Carl Wernicke, đã viết về một người phụ nữ 59 tuổi mà ông gọi là S.A., người đã mất khả năng hiểu lời nói.

Không giống như bệnh nhân Leborgne, S.A. có thể nói trôi chảy, nhưng lời nói của bà chẳng có ý nghĩa gì: Bà ấy đưa ra những câu trả lời ngớ ngẩn cho các câu hỏi, sử dụng những từ tự tạo ra và gặp khó khăn khi gọi tên những đồ vật quen thuộc. Sau khi bà qua đời, Wernicke xác định rằng bà bị tổn thương ở thùy thái dương bên trái, ngày nay được gọi là vùng Wernicke. Điều này khiến bà gặp khó khăn trong việc hiểu lời nói nhưng không khó khăn với tạo ra lời nói, tình trạng khiếm khuyết mà ngày nay được gọi là “chứng mất ngôn ngữ Wernicke” hay “chứng mất ngôn ngữ lưu loát” (fluent aphasia). Bệnh nhân mắc chứng mất ngôn ngữ lưu loát có thể hiểu từng từ ngắn và lời nói của họ có thể có âm điệu và tốc độ bình thường, nhưng nó thường có nhiều lỗi trong các âm và chọn từ và thường khó hiểu.

Một loại chứng mất ngôn ngữ khác được gọi là “điếc ngôn ngữ thuần túy”, nguyên nhân là do tổn thương phần trên của thùy thái dương ở cả hai bán cầu. Bệnh nhân mắc chứng rối loạn này không thể hiểu được lời nói được nghe ở bất kỳ mức độ nào. Nhưng họ không bị điếc. Họ có thể nghe thấy lời nói, âm nhạc và các âm thanh khác, đồng thời có thể phát hiện giai điệu, cảm xúc và thậm chí cả giới tính của người nói. Nhưng họ không thể liên kết âm thanh của từ với ý nghĩa tương ứng của chúng. (Tuy nhiên, họ có thể hiểu ngôn ngữ viết một cách hoàn hảo vì thông tin hình ảnh đi băng qua vùng hiểu thính giác bị tổn thương ở thùy thái dương.)

Ngôn ngữ là một khả năng nhận thức phức tạp liên quan đến nhiều vùng của não. Vùng màu xanh trong hình này là vùng Broca, vùng này rất quan trọng cho việc tạo ra giọng nói. Vùng màu xanh lá cây là vùng Wernicke, chịu trách nhiệm hiểu lời nói của người khác.

Mặc dù công trình của Broca và Wernicke nhấn mạnh vai trò của bán cầu não trái trong khả năng nói và ngôn ngữ, nhưng các nhà khoa học hiện nay biết rằng việc nhận biết âm thanh lời nói và từng từ riêng lẻ thực sự liên quan đến cả thùy thái dương trái và phải. Tuy nhiên, việc tạo ra lời nói phức tạp phụ thuộc rất nhiều vào bán cầu não trái, bao gồm cả thùy trán cũng như các vùng sau ở thùy thái dương. Những vùng này rất quan trọng để truy cập các từ và âm thanh lời nói thích hợp.

Đọc và viết liên quan đến các vùng não khác nữa – những vùng kiểm soát nhìn và vận động. Quá trình xử lý cảm giác của từ được viết sử dụng các liên kết giữa các vùng ngôn ngữ của não và các vùng xử lý nhận thức thị giác. Trong trường hợp đọc và viết, nhiều trung tâm tương tự liên quan đến việc hiểu và tạo ra lời nói vẫn rất cần thiết, nhưng cần đầu vào từ các vùng thị giác để phân tích hình dạng của các chữ cái và từ, cũng như đầu ra đến các vùng vận động điều khiển bàn tay.

Lược theo BrainFacts.org

XEM THÊM: LƯỢNG GIÁ KHẢ NĂNG GIAO TIẾP

Mục lục

👋 Chào bạn!

Hãy nhập địa chỉ email của bạn để đăng ký theo dõi blog này và nhận thông báo về các bài mới qua email mỗi tuần.

MinhdatRehab

Gởi bình luận

Xin lỗi. Bạn không thể sao chép nội dung ở trang này