QUY TRÌNH HOẠT ĐỘNG TRỊ LIỆU

Cập nhật lần cuối vào 17/08/2023

Thuật ngữ tiếng Anh: Occupational Therapy Process

Một số Chữ viết tắt, thuật ngữ hoạt động trị liệu:

  • OT (Occupational therapy, Occupational therapist): Hoạt động trị liệu, Kỹ thuật viên hoạt động trị liệu
  • FOR (Frame of reference): Khung tham chiếu
  • MOP (Model of Practice): Mô hình thực hành
  • MOHO (Model of Human Occupation): Mô hình Hoạt động Con người
  • Occupational Profile: hồ sơ hoạt động
  • Legitimate Tools: Các công cụ hợp pháp

Quy trình (hoặc quá trình) Hoạt động trị liệu bắt đầu với việc giới thiệu, sàng lọc và đánh giá và chuyển từ thiết lập mục tiêu, lập kế hoạch can thiệp và thực hiện đến đánh giá lại và lập kế hoạch xuất viện.

Hình 1: Quy trình Hoạt động trị liệu

Mục lục

Giới thiệu, sàng lọc và đánh giá

Giai đoạn đánh giá của quy trình Hoạt động trị liệu bao gồm giới thiệu, sàng lọc và đánh giá. Trong giai đoạn này, OT gặp trẻ, gia đình hoặc các nguồn giới thiệu khác (ví dụ: giáo viên, chuyên gia can thiệp sớm) để thu thập thông tin sẽ hỗ trợ thiết lập mục tiêu và phát triển cấu hình hoạt động cho trẻ.

Giới thiệu (Referral)

Trẻ thường đến hoạt động trị liệu thông qua giới thiệu. Người giới thiệu thường là bác sĩ nhi khoa, bác sĩ PHCN, các chuyên gia can thiệp sớm, giáo viên.

Sàng lọc (Screening)

Bệnh nhân cũng có thể được giới thiệu đến Hoạt động trị liệu thông qua quá trình sàng lọc. Sàng lọc cung cấp một cái nhìn tổng quát về hoạt động chức năng của trẻ để xác định xem có cần đánh giá thêm hay không. Việc sàng lọc có thể được thực hiện bởi một kỹ thuật viên, bác sĩ PHCN trong một chương trình cụ thể, như sàng lọc ở lớp mẫu giáo, sàng lọc tại cộng đồng.

Đánh giá

Đánh giá cung cấp cho OT một bức tranh tổng thể về nhu cầu hoạt động của khách hàng cũng như điểm mạnh và điểm yếu của họ.  Những vấn đề cần lượng giá có thể bao gồm:

  • các lĩnh vực hoạt động (areas of performance) của một cá nhân (ví dụ: các hoạt động sinh hoạt hàng ngày [ADLs], các ADLs quan trọng [IADLs], công việc, học tập, vui chơi/giải trí, nghỉ ngơi và ngủ, tham gia xã hội), 
  • các yếu tố khách hàng (client factors) (ví dụ: thần kinh cơ, các chức năng tâm thần tổng thể và chuyên biệt, hệ thống cơ thể), 
  • các kiểu mẫu thực hiện (performance patterns) (nghĩa là các thói quen, việc thường lệ, vai trò, nghi thức,
  • các kỹ năng thực hiện (performance skills), 
  • các bối cảnh (contexts) (nghĩa là các yếu tố cá nhân và môi trường), 
  • các nhu cầu hoạt động

XEM THÊM: CÁC KỸ NĂNG THỰC HIỆN (PERFORMANCE SKILLS)

Đánh giá được thể hiện qua Hồ sơ hoạt động, mô tả về mức độ thực hiện chức năng của trẻ. Xem những câu hỏi liên quan đến hồ sơ hoạt động ở hộp  1.

HỘP 1. Các thành phần của hồ sơ hoạt động (Occupational Profile)

  • Khách hàng là ai?
  • Tại sao khách hàng tìm kiếm dịch vụ?
  • Lý do giới thiệu là gì?
  • Những hoạt động nào thực hiện tốt hoặc khó khăn?
  • Những bối cảnh và môi trường nào hỗ trợ hoặc cản trở kết quả mong muốn?
  • Lịch sử hoạt động của khách hàng là gì?
  • Các ưu tiên và kết quả mục tiêu của khách hàng là gì?

Chuyển thể từ American Occupational Therapy Association. (2014). Occupational therapy practice framework: Domain and process (3rd ed.). Am J Occup Ther, 68(Suppl 1), S1–S48.

Các mức độ chức năng:

  • Độc lập về chức năng nghĩa là hoàn thành các hoạt động phù hợp với lứa tuổi có hoặc không sử dụng các thiết bị hỗ trợ và không có sự trợ giúp của người khác (ví dụ: ăn độc lập bằng thìa có điều chỉnh; Hình 2, A).
  • Thực hiện có trợ giúp nghĩa là trẻ tham gia vào một nhiệm vụ cụ thể phù hợp với lứa tuổi với sự hỗ trợ của người chăm sóc (ví dụ: rửa tay; Hình 2, B).
  • Thực hiện phụ thuộc xảy ra khi một trẻ không thể thực hiện một nhiệm vụ phù hợp với lứa tuổi. Cần có người chăm sóc thực hiện nhiệm vụ cho trẻ (ví dụ: cầm thìa cho trẻ; Hình  2, C).
Hình 2. Các mức độ chức năng. A, Trẻ mới biết đi này có thể tự ăn. Trẻ độc lập sau khi được xếp đặt. B, OT cung cấp một phần trợ giúp để giúp trẻ rửa tay. C, OT trợ giúp bằng tay để trẻ có thể đưa thìa lên miệng. Trẻ này phụ thuộc vào KTV để ăn.

Mức độ chức năng của trẻ có thể khác nhau tùy theo nhiệm vụ, mẫu hình và bối cảnh. Ví dụ, một trẻ có thể tự ăn một mình ở nhà sau khi được xếp đặt nhưng không thể làm được như vậy ở trường trong giờ ăn trưa vì tiếng ồn lớn và sự lộn xộn của phòng ăn trưa.

Ví dụ về Hồ sơ Hoạt động của người lớntrẻ em. theo AOTA (Hiệp hội Hoạt động trị liệu Hoa kỳ)

Lập kế hoạch can thiệp, thiết lập mục tiêu, và thực hiện can thiệp.

Lập kế hoạch can thiệp (Intervention Planning)

OT phát triển một kế hoạch can thiệp sau khi hoàn thành đánh giá. Đánh giá bao gồm các mối quan tâm của bố mẹ, điểm mạnh và điểm yếu của khách hàng, xác định tiềm năng phục hồi của khách hàng, các mục đích dài hạn và các mục tiêu ngắn hạn. 

Kế hoạch mô tả loại phương tiện (media) (tức là các loại vật liệu cụ thể) và phương thức (modalities) (tức là các công cụ can thiệp) sẽ được sử dụng cũng như tần suất và thời gian điều trị. Kế hoạch cũng bao gồm các kế hoạch đánh giá lại và xuất viện.

(Các phương tiện sẽ được trình bày ở một bài viết khác)

Kế hoạch can thiệp dựa trên một Mô hình Thực hành (model of practice, MOP) đã chọn hoặc một Khung tham chiếu (frame of reference, FOR). FOR cung cấp các hướng dẫn và chiến lược can thiệp. OT sử dụng kiến thức về các FOR đã chọn, phân tích hoạt động và lựa chọn, tăng dần (gradation) và điều chỉnh các hoạt động để thực hiện kế hoạch can thiệp. Các FOR nhi khoa phổ biến trong hoạt động trị liệu là MOHO (Model of Human Occupation, Mô hình Hoạt động Con người, vừa là một MOP vừa là một FOR), phát triển, tích hợp cảm giác, sinh cơ học, cảm giác vận động, kiểm soát vận động và phục hồi chức năng.

(Các Mô hình Thực hành và Khung tham chiếu Hoạt động trị liệu sẽ được trình bày ở một bài viết khác)

Thiết lập mục tiêu (Goal Setting)

OT hợp tác với gia đình để thiết lập các mục tiêu ngắn hạn và dài hạn cho bệnh nhi cần trị liệu. Thông qua quá trình hợp tác, OT và gia đình đồng ý về các nhu cầu của trẻ cũng như các ưu tiên phù hợp cho can thiệp. Điều này làm cho quá trình can thiệp hiệu quả hơn và dẫn đến sự hiểu biết trẻ tốt hơn. Dựa trên việc đánh giá và thảo luận về các nhu cầu, có thể thiết lập các mục tiêu thực tiễn cho trẻ.

Các Mục tiêu/mục đích dài hạn

Mục tiêu dài hạn là những câu mô tả các mục tiêu hoạt động mà khách hàng cần đạt được sau khi can thiệp. Những mục tiêu này phải đo lường được, có thể quan sát được, rõ ràng và được viết với các từ hành động. Các mục tiêu cần phải rất cụ thể và giải quyết các vấn đề đã được xác định. Có thể sử dụng các từ viết tắt dễ nhớ như SMART.

XEM THÊM: THIẾT LẬP MỤC TIÊU SMART VÀ THANG ĐO ĐẠT MỤC TIÊU GAS

Các mục tiêu ngắn hạn

Các mục tiêu ngắn hạn là các bước mà khách hàng cần đạt được để có thể đạt được các mục tiêu dài hạn. Chúng là những câu mô tả các kỹ năng cần thành thạo trong một khoảng thời gian tương đối ngắn.

  • Ví dụ, một khách hàng có mục tiêu dài hạn là độc lập mặc quần áo. Các mục tiêu ngắn hạn cho khách hàng này có thể bao gồm phát triển khả năng cầm nắm kiểu kẹp để cài khuy, học cách cài khuy và phát triển các kỹ năng trình tự để mặc quần áo.

Thực hiện trị liệu (Treatment Implementation)

Việc thực hiện điều trị (can thiệp) liên quan đến việc can thiệp ở cơ sở trẻ đang được trị liệu, làm việc với gia đình và làm việc trực tiếp với đứa trẻ. Làm việc với trẻ bao gồm lập kế hoạch cho mỗi buổi học, phát triển và phân tích các hoạt động, sau đó chấm điểm và điều chỉnh các hoạt động đó khi cần thiết. Quá trình này trước hết hướng tới việc đạt được các mục tiêu ngắn hạn và sau đó là các mục tiêu dài hạn.

Can thiệp bao gồm các phương pháp được sử dụng để đạt được các mục tiêu, phương tiện/môi trường hoặc các hoạt động được sử dụng trong quá trình can thiệp và ghi chép về sự tiến bộ hoặc không tiến bộ của trẻ.

Các công cụ hợp pháp (Legitimate Tools) là những phương tiện hoặc công cụ mà OT sử dụng để mang lại sự thay đổi. Các công cụ hợp pháp thay đổi theo thời gian dựa trên kiến thức ngày càng tăng của OT, những tiến bộ công nghệ cũng như nhu cầu và giá trị của cả nghề nghiệp và xã hội. Các OT sử dụng hoạt động, các hoạt động có mục đích, phân tích hoạt động, tổng hợp hoạt động và sử dụng bản thân để trị liệu như những công cụ giúp chăm sóc trẻ.

Hoạt động (Occupation)

Mục tiêu của hoạt động trị liệu là giúp trẻ tham gia vào các hoạt động mà chúng mong muốn. Những hoạt động này bao gồm tham gia hoạt động xã hội, các nhiệm vụ tự chăm sóc bản thân (ví dụ: ăn, mặc quần áo, tắm rửa), các hoạt động học tập, nghỉ ngơi và ngủ, IADL và vui chơi. Can thiệp được thiết kế để giúp trẻ tích cực tham gia đầy đủ nhất vào những hoạt động này. Do đó, các OT phân tích các hoạt động để xác định lý do tại sao trẻ không thực hiện được tốt và sử dụng các công cụ thực hành để hỗ trợ trẻ. Sau đó, can thiệp được thiết kế để khắc phục những khiếm khuyết kỹ năng cơ bản đang gây khó khăn cho trẻ, để bù đắp cho những lĩnh vực có vấn đề, hoặc để thích ứng với các yêu cầu của các kỹ năng để trẻ có thể thực hiện chúng thành công theo một cách khác.

Các OT cung cấp các biện pháp can thiệp dựa trên hoạt động. Can thiệp liên quan đến việc để trẻ tích cực tham gia vào hoạt động thực tế mà trẻ gặp khó khăn. Ví dụ, một can thiệp để cải thiện khả năng chơi với người khác của một trẻ có thể bao gồm việc mời một đứa trẻ khác đến (các) buổi trị liệu để tạo điều kiện chơi.

Hoạt động có mục đích (Purposeful Activities)

Các hoạt động có mục đích được định nghĩa là các hành vi hoặc nhiệm vụ hướng đến mục tiêu mà cấu thành hoạt động (occupation). Một hoạt động là có mục đích nếu cá nhân đó là người tham gia tích cực, tự nguyện và hoạt động hướng đến mục tiêu mà cá nhân đó cho là có ý nghĩa. Các OT sử dụng các hoạt động có mục đích để đánh giá, tạo thuận, khôi phục hoặc duy trì khả năng của các cá nhân để thực hiện các hoạt động hàng ngày của họ.

Các hoạt động có mục đích cung cấp cơ hội cho các cá nhân đạt được thành thạo và việc thực hiện thành công thúc đẩy cảm giác về năng lực cá nhân. Những người tham gia vào các hoạt động có mục đích tập trung vào các quá trình cần thiết để đạt được kết quả hơn là vào các mục tiêu. Các hoạt động có mục đích xảy ra trong các bối cảnh của các điều kiện cá nhân, văn hóa, vật lý và môi trường khác và đòi hỏi nhiều yếu tố khác nhau của khách hàng (ví dụ: thần kinh cơ, các chức năng tâm tổng thể và chuyên biệt và các hệ thống cơ thể). Các hoạt động có mục đích là duy nhất đối với từng cá nhân; do đó, OT định mức hoặc thích ứng điều chỉnh một hoạt động đã chọn cho cá nhân đó.

Phân tích hoạt động (Activity Analysis)

Phân tích hoạt động là quá trình phân tích một hoạt động để xác định cách thức và thời điểm nên sử dụng hoạt động đó với một khách hàng cụ thể. Nó liên quan đến việc xác định các thành phần hoặc các yếu tố khách hàng cần thiết để thực hiện một hoạt động. Có một số phương pháp được sử dụng để phân tích hoạt động. Sau đây thảo luận hai phương pháp trong số đó.

  • Phương pháp đầu tiên là phân tích hoạt động tập trung vào nhiệm vụ (task-focused activity analysis). Phương pháp phân tích hoạt động này xác định các thành phần thể chất (cảm giác vận động), nhận thức và cảm xúc xã hội (tâm lý/tâm lý xã hội) liên quan đến một nhiệm vụ cụ thể. OT sử dụng phân tích hoạt động để mô tả các vật liệu cần thiết cho hoạt động, các bước tuần tự của hoạt động và các mối quan tâm về sự an toàn. Phân tích hoạt động tập trung vào nhiệm vụ xác định các thành phần hiệu suất quan trọng nhất và ít quan trọng nhất cần thiết để hoàn thành hoạt động. Các điều kiện và ảnh hưởng về thể chất, cá nhân, xã hội và văn hóa được mô tả. Sử dụng phân tích này, OT xác định cách hoạt động có thể được tăng dần (grade) và điều chỉnh cho phù hợp (adapt) với khách hàng. Phân tích hoạt động tập trung vào nhiệm vụ được sử dụng để hiểu hoạt động về mặt kỹ năng và ý nghĩa cá nhân và văn hóa để giúp OT hiểu được cách sử dụng hoạt động trong điều trị. Kiểu phân tích này cho phép nhanh chóng xác định nhu cầu của một hoạt động (Hình 3 ).
  • Phương pháp thứ hai bao gồm cả phân tích hoạt động tập trung vào trẻ và gia đình (Hình 4). OT phân tích can thiệp hiện tại và xác định điểm mạnh và điểm yếu của trẻ và gia đình. Sau đó, OT xác định các mục tiêu và lập kế hoạch cho các hoạt động được thiết kế cụ thể để đáp ứng các mục tiêu đó. OT mô tả các loại vật liệu, vật tư và thiết bị cần thiết; xác định tư thế của trẻ và OT trong quá trình can thiệp; và ghi lại các kết quả hoặc khuyến nghị dự kiến. Một số hoạt động có thể đáp ứng các yêu cầu của kế hoạch.

Có một mức độ chồng chéo giữa hai loại phân tích hoạt động này. Mặc dù mỗi cách đều nhấn mạnh các khía cạnh khác nhau của hoạt động, nhưng cả hai đều yêu cầu người OT phải hiểu các nhu cầu của trẻ, các tiếp cận lý thuyết và bối cảnh can thiệp.

Hình 3. Biểu mẫu phân tích hoạt động tập trung vào nhiệm vụ

Hình 4.  Biểu mẫu phân tích hoạt động tập trung vào trẻ và gia đình.

Tổng hợp hoạt động ( Activity Synthesis)

Tổng hợp hoạt động bao gồm điều chỉnh thích ứng, tăng dần và cấu hình lại các hoạt động và được xem là một công cụ hợp pháp được sử dụng trong thực hành OT.

Điều chỉnh (adaptation) đề cập đến quá trình thay đổi các bước trong một hoạt động để khách hàng có thể tham gia vào hoạt động đó. Một hoạt động được điều chỉnh bằng cách sửa đổi hoặc thay đổi trình tự các bước của nó, cách bày các vật liệu hoặc đặt tư thế của trẻ, hoặc bằng cách trình bày hoạt động theo cách mà trẻ chỉ được kỳ vọng thực hiện những khía cạnh nhất định của nó. Các hoạt động cũng có thể được điều chỉnh bằng cách thay đổi các đặc điểm của vật liệu được sử dụng, chẳng hạn như kích thước, hình dạng, kết cấu hoặc trọng lượng của chúng. Ví dụ, trong trường hợp một đứa trẻ sợ vận động và cần cải thiện hoặc phát triển các phản ứng chỉnh thế, OT có thể để trẻ ngồi trên một quả bóng trị liệu để tạo ra các phản ứng chỉnh thế (Hình 5). Tuy nhiên, do trẻ sợ vận động nên OT có thể bắt đầu can thiệp bằng một quả bóng nhỏ hơn cho phép bàn chân tiếp đất và thực hiện các chuyển động chậm, có kiểm soát. OT có thể làm cho hoạt động trở nên dễ dàng hơn hoặc khó khăn hơn để xác định thử thách phù hợp với trẻ.

Hình 5. OT tạo thuận kiểm soát tư thế bằng cách chơi trò chơi trên một quả bóng lớn.

Tăng dần (Gradation) đề cập đến quá trình sắp xếp các bước của một hoạt động theo một chuỗi tuần tự để thay đổi hoặc tăng tiến, cho phép cải thiện dần dần bằng cách tăng yêu cầu mức độ thực hiện cao hơn khi khả năng của trẻ tăng lên. 

  • Ví dụ, OT cung cấp một cái khung hạn chế chuyển động của quả bóng giúp trẻ cảm thấy thoải mái hơn khi ngồi trên bóng. Một khi trẻ đã cảm thấy thoải mái, OT có thể lấy khung cố định đi. 

OT xác định loại và mức độ tăng dần dựa trên suy luận lâm sàng. Mức độ thành công tích của trẻ thay đổi khi trẻ tham gia vào các hoạt động được làm tăng dần theo nhu cầu của trẻ. Sau khi OT đã điều chỉnh và tăng dần một hoạt động, hoạt động đó sẽ được đưa ra ở dạng “thực tế”, do đó tổng hợp phân tích, điều chỉnh và tăng dần vào chính hoạt động đó. 

  • Ví dụ, việc cho trẻ ăn bằng ngón tay được chấp nhận khi trẻ đang học cách tự ăn . Hoạt động sau đó được điều chỉnh bằng cách  đưa giới thiệu một dụng cụ ăn uống. Ban đầu, trẻ có thể cầm dụng cụ và cố gắng dùng nó để xúc thức ăn. Cuối cùng, OT mong đợi trẻ nắm lấy dụng cụ, xúc thức ăn và đưa vào miệng, sau đó tổng hợp hoạt động tự ăn thành khả năng thực sự của trẻ. Mục tiêu của điều chỉnh và tăng dần hoạt động là tham gia vào các công việc trong bối cảnh đã cho.

Cấu hình hoạt động  (activity configuration) là quá trình lựa chọn, trên cơ sở độ tuổi, sở thích và khả năng của trẻ, các hoạt động cụ thể sẽ được sử dụng trong quá trình can thiệp. 

  • Ví dụ: mục đích dài hạn cho trẻ có thể là khả năng tự ăn độc lập. Một mục tiêu ngắn hạn có thể là xúc thức ăn bằng thìa. Mục tiêu của buổi học có thể là học cách kiểm soát việc cầm và thả thìa. 

OT thiết kế các hoạt động cụ thể cho các đích can thiệp của trẻ và dựa trên hiểu biết về mong muốn của trẻ. Các hoạt động được thiết kế linh hoạt, sáng tạo và có mục đích cho trẻ. Các hoạt động này phù hợp với lứa tuổi và mang tính thử thách, đồng thời không quá sức. Các OT cân nhắc các phương pháp và phương tiện (media) cần thiết để cho phép trẻ thành công với mỗi hoạt động.

Sử dụng bản thân để trị liệu (Therapeutic Use of Self)

Việc sử dụng bản thân để trị liệu là khả năng của OT giao tiếp với trẻ và gia đình hoặc người chăm sóc trong khi nhận biết được các cảm xúc cá nhân của chính mình. Các OT sử dụng các đặc điểm cá nhân của họ để quan hệ với gia đình, tương tác với trẻ và giúp chúng thực hiện các hoạt động. Do đó, những OT nhận thức được điểm mạnh và điểm yếu của mình sẽ có cái nhìn sâu sắc về cách sử dụng bản thân để ảnh hưởng đến can thiệp, qua đó có thể giúp đỡ trẻ và gia đình cháu hiệu quả hơn.

Taylor đã phát triển Mô hình quan hệ có chủ đích (Intentional Relationship Model, hình 6), mô tả sáu phương thức tương tác với khách hàng vì lợi ích của họ. Các phương thức giao tiếp giữa các cá nhân này bao gồm ủng hộ, cộng tác, đồng cảm, khuyến khích, hướng dẫn và giải quyết vấn đề. Hiểu cách sử dụng các kiểu quan hệ này với các khách hàng khác nhau có thể giúp các OT cải thiện việc sử dụng bản thân trong trị liệu.

Hình 6: Mô hình quan hệ có chủ đích của Taylor
XEM THÊM VỀ MÔ HÌNH QUAN HỆ CÓ CHỦ ĐÍCH: 

Các OT nhận ra rằng trẻ được đối xử trong các bối cảnh gia đình, văn hóa và môi trường của chúng. Vai trò của OT là tạo ra một bầu không khí tự do và thử thách trong khi can thiệp. Việc can thiệp không nên quá đơn giản khiến trẻ chán nản hoặc quá khó khiến trẻ cảm thấy không đủ năng lực. OT chuẩn bị bối cảnh phù hợp để đáp ứng nhu cầu của trẻ bằng cách hướng dẫn trẻ thành thạo các kỹ năng.

Các OT làm việc với gia đình để hướng dẫn họ khi họ chăm sóc trẻ. Bởi vì các gia đình có thể gặp căng thẳng về cảm xúc liên quan đến vấn đề nuôi dạy một đứa trẻ có nhu cầu đặc biệt, nên không phải lúc nào họ cũng có thể tham gia vào quá trình trị liệu. Các nhà trị liệu phải làm việc với cha mẹ ở nơi họ đang ở và không có những mong đợi hoặc phán xét không thực tế đối với cha mẹ (nghĩa là nghĩ rằng cha mẹ có thể “vượt qua” mọi việc). Cha mẹ sẽ hiểu nhu cầu của con mình rõ hơn khi họ làm việc với OT để đạt được các mục tiêu đã đề ra.

Đánh giá lại và ngừng can thiệp (Reevaluation and Discontinuation of Intervention)

Đánh giá lại

Định kỳ và cuối can thiệp, OT cần thực hiện đánh giá lại xem có các thay đổi trong tình trạng hoạt động ở trẻ hay không, và xác định mức độ thành công/ đạt mục tiêu của can thiệp.

Ngừng can thiệp

Khi trẻ đã đạt được các mục tiêu đã định trước và đạt được lợi ích tối đa từ hoạt động trị liệu, hoặc khi cha mẹ và trẻ không còn muốn tiếp tục can thiệp, có thể ngừng can thiệp OT. Các kế hoạch ngừng can thiệp/xuất viện nên bao gồm một kế hoạch theo dõi khi cần thiết.

Hình 7: Các lĩnh vực (domain) và quá trình (process) của hoạt động nhằm đạt đến mục tiêu

Minh Dat Rehab tổng hợp và dịch thuật

👋 Chào bạn!

Hãy nhập địa chỉ email của bạn để đăng ký theo dõi blog này và nhận thông báo về các bài mới qua email mỗi tuần.

MinhdatRehab

Gởi bình luận

Xin lỗi. Bạn không thể sao chép nội dung ở trang này