Mục lục
TRƯỜNG HỢP
Bệnh nhân nam 55 tuổi, sức khỏe tốt cho đến khoảng 6 tháng trước. Lúc đó, ông nhận thấy mình bị run. Ông không có bất kỳ than phiền nào khác. Khi khám, ông bị run ở tay phải khi nghỉ ngơi và khi đi bộ, ông bị run liên tục ở cả hai cánh tay, và ở một mức độ nào đó khi thực hiện động tác ngón tay-mũi-ngón tay (khá nhỏ và không có nhịp rõ rệt. Ông có khuôn mặt lạnh như tiền và dáng đi chậm, thận trọng. Tăng trương lực ở tay và chân phải. Khám sức khỏe không có gì đáng chú ý. Ông không sử dụng rượu hoặc bất kỳ loại thuốc nào khác.
- Chẩn đoán có khả năng xảy ra nhất là gì?
- Bước chẩn đoán tiếp theo là gì?
- Bước điều trị tiếp theo là gì?
TRẢ LỜI: Bệnh Parkinson
Tóm tắt: Đây là một người đàn ông trung niên bị run không đối xứng. Ngoài ra, bệnh nhân còn bị nghèo vận động nhẹ (hay còn gọi là bất động ở mặt và thân mình), run khi nghỉ ngơi, cũng như tăng trương lực cơ.
- Chẩn đoán có khả năng nhất: Bệnh Parkinson.
- Bước chẩn đoán tiếp theo: Chụp MRI não để đánh giá các rối loạn khác trong chẩn đoán phân biệt.
- Bước tiếp theo trong điều trị: Nếu các triệu chứng hiện tại gây ra tình trạng khuyết tật cho bệnh nhân, hãy bắt đầu liệu pháp bằng thuốc chủ vận dopamine hoặc thuốc ức chế monoamine oxidase loại B (MAO-B).
Phân tích
Mục tiêu
1. Hiểu chẩn đoán phân biệt bệnh Parkinson.
2. Biết các đặc điểm lâm sàng của bệnh Parkinson.
3. Mô tả tính hữu ích của các thăm dò hình ảnh học khác nhau để đánh giá tổn thương tủy sống và tầm quan trọng của độ tuổi bệnh nhân.
4. Nhận biết các lựa chọn điều trị khác nhau cho bệnh Parkinson.
Xem xét
Bệnh nhân được mô tả trong trường hợp trên bị run khi nghỉ ngơi, cứng đờ và giảm vận động, đây là ba đặc điểm chính của bệnh Parkinson và tạo nên hội chứng Parkinson. Đặc điểm chính thứ tư là mất ổn định tư thế, ở bệnh Parkinson vô căn, tình trạng này thường khởi phát muộn hơn vài năm. Nguyên nhân phổ biến nhất gây ra hội chứng Parkinson là bệnh Parkinson. Cần phải tìm kiếm cẩn thận các nguyên nhân thứ phát gây ra hội chứng Parkinson như tiền sử sử dụng thuốc (thuốc chống loạn thần), các bệnh chuyển hóa hoặc cấu trúc của não (não úng thủy) và nguyên nhân nhiễm trùng. MRI não thường được thực hiện. Levodopa là một loại thuốc chuẩn được sử dụng để điều trị các triệu chứng của bệnh Parkinson; thật đáng tiếc là, không có loại thuốc nào được chứng minh là làm chậm tiến triển của bệnh.
TIẾP CẬN BỆNH NHÂN NGHI NGỜ BỊ PARKINSON
Định nghĩa
- Substantia nigra—(tiếng Latin có nghĩa là “chất đen”) hoặc locus niger là một phần không đồng nhất của não giữa và là một thành phần quan trọng của hệ thống hạch nền. Nó bao gồm các phần đặc, phần lưới và phần bên ( pars compacta, pars reticulata, and the pars lateralis.).
- Thể Lewy — một thể vùi tròn ái toan được tìm thấy trong tế bào chất của chất đen, nhân nền Meynert, locus ceruleus (điểm xanh), đường nối lưng và nhân vận động lưng của dây thần kinh sọ X. Chúng chứa alpha-synuclein, một protein trước synap, chức năng của protein này chưa được biết rõ. Các protein sợi thần kinh và ubiquitin là những thành phần quan trọng khác của thể Lewy.
Tiếp cận lâm sàng
Triệu chứng
Bệnh Parkinson là một rối loạn có tên bắt nguồn từ “Bài luận về chứng liệt rung” (Essay on the Shaking Palsy) của James Parkinson. Các đặc điểm của bệnh Parkinson có thể được biểu hiện theo những cách khác bao gồm: khó khăn khi đứng dậy khỏi ghế, khó trở mình trên giường, chứng viết chữ nhỏ, mặt như mặt nạ, dáng đi khom lưng, dồn bước với cánh tay ít đong đưa; và chảy nước dãi. Mặc dù bệnh Parkinson được xem là một rối loạn vận động, nhưng các hệ thống cảm giác cũng bị ảnh hưởng. Mất khứu giác gần như là phổ biến. Đau rất thường gặp. Ảnh hưởng các hệ thống khác có thể dẫn đến rối loạn tự chủ, trầm cảm, nhiều rối loạn ngôn ngữ bao gồm nói khó, nói lắp. Nghiên cứu đã chỉ ra rằng các khiếm khuyết nhận thức riêng lẻ cực kỳ phổ biến ở bệnh Parkinson, đặc biệt là rối loạn chức năng điều hành. Ngoài ra, khoảng 50% bệnh nhân phát triển mất trí nhớ.
Tuy nhiên, vẫn có nhiều dấu hiệu và triệu chứng không điển hình của bệnh Parkinson và chúng ta nên cảnh giác rằng có một rối loạn khác hiện diện. Bao gồm:
- Khởi phát sớm, hoặc tiến triển nhanh của chứng mất trí
- Diễn biến tiến triển nhanh chóng
- Liệt vận nhãn trên nhân
- Dấu hiệu của tế bào thần kinh vận động trên
- Dấu hiệu tiểu não—rối tầm, thất điều
- Tiểu không tự chủ
- Hạ huyết áp tư thế có triệu chứng sớm
- Ngã sớm
Bệnh lý học
Đặc điểm bệnh lý học rõ ràng nhất của bệnh Parkinson là mất sắc tố ở chất đen do mất các tế bào thần kinh ở vùng này. Các tế bào thần kinh còn lại có thể có một thể vùi ái toan trong tế bào chất gọi là thể Lewy (Hình 1). Các tế bào thần kinh này chiếu ra trước trong não để chi phối cả thể vân và vỏ não. Bệnh Parkinson có liên quan đến tình trạng suy giảm dopamine (DA) ở thể vân rõ rệt và nhiều người xem đây là hội chứng thiếu hụt dopamine ở thể vân. Khi tử vong, tình trạng mất DA lớn hơn 90% và mất DA khoảng 70% dẫn đến biểu hiện triệu chứng. Mức độ nghiêm trọng của tình trạng mất DA tương quan rõ nhất với tình trạng chậm vận động ở bệnh Parkinson—mối tương quan với chứng run rất ít.
Trong những năm gần đây, chúng ta đã thấy một bức tranh toàn diện hơn nhiều về sự phá hủy bệnh lý do bệnh Parkinson gây ra, giúp chúng ta hiểu được nhiều dấu hiệu và triệu chứng khác nhau ngoài chậm vận động. Các khiếm khuyết về hình thái và hóa học khác cũng đã được chứng minh trong não của bệnh nhân mắc bệnh Parkinson ở nhân cuống cầu não (pedunculopontine nucleus) hệ cholinergic, điểm xanh (locus coeruleus) hệ noradrenergic, nhân raphe hệ serotonergic và phức hợp giữa trong/cạnh bó (centromedian/parafascicularis) hệ glutamatergic của đồi thị.
Nguyên nhân
Phần lớn nguyên nhân các trường hợp mắc bệnh Parkinson vẫn chưa được biết rõ. Bệnh Parkinson gia đình, mặc dù hiếm gặp, vẫn xảy ra và thường liên quan đến đột biến gen parkin, được di truyền theo kiểu lặn trên nhiễm sắc thể thường. Đột biến này là nguyên nhân phổ biến nhất gây ra bệnh Parkinson khởi phát sớm, không có thể Lewy. Chụp ảnh thần kinh thường quy thường là bình thường đối với bệnh Parkinson. Chụp ảnh chức năng được thiết kế để hình dung sự chi phối của dopamine ở thể vân, đặc biệt là khi kết hợp với các kỹ thuật chụp ảnh khác có thể cung cấp một cách để xác định bệnh một cách tích cực, tuy nhiên các kỹ thuật này vẫn đang được nghiên cứu và không khả dụng trong các trường hợp lâm sàng thông thường. Tuy nhiên, chụp ảnh hữu ích để xác định một số bệnh lý khác trong chẩn đoán phân biệt.
Chẩn đoán phân biệt bệnh Parkinson với hội chứng Parkinson bao gồm các nhóm sau:
- Do thuốc (thuốc chống loạn thần, metoclopramide)
- Do độc tố
- Chuyển hóa
- Tổn thương cấu trúc (bệnh Parkinson mạch máu, v.v.)
- Não úng thủy (não úng thủy áp lực bình thường [NPH])
- Nhiễm trùng
Chẩn đoán phân biệt với bệnh lý khác
- Bệnh Parkinson thường bị nhầm lẫn với các rối loạn thoái hóa thần kinh khác, phổ biến nhất là teo đa hệ thống (multiple system atrophy, MSA). Bệnh này có hai dạng lâm sàng chính: MSA–P, giống với bệnh Parkinson ngoại trừ chứng run ít nổi bật hơn và rối loạn này có xu hướng khá đối xứng. MSA–C, biểu hiện dưới dạng hội chứng tiểu não. Cả hai dạng đều có thể có tình trạng suy giảm chức năng tự chủ nổi bật — bao gồm hạ huyết áp tư thế đứng và bất lực. MRI thường cho thấy các bất thường.
- Sa sút trí tuệ với thể Lewy là một rối loạn có rối loạn chức năng nhận thức nổi bật cũng như hội chứng Parkinson. Các dấu hiệu lâm sàng điển hình bao gồm chứng mất trí nhớ khởi phát sớm, ảo tưởng và ảo giác, dao động ý thức và rung giật giật cơ. Mặc dù được liệt kê là một thực thể bệnh riêng biệt, nhưng vẫn có nhiều tranh cãi về việc liệu đây có phải là bệnh Parkinson hay đại diện cho một phần của phổ lâm sàng của cùng một thực thể bệnh lý. Mặc dù hội chứng Parkinson có thể được gặp trong bệnh Alzheimer, nhưng đây là một biểu hiện hiếm gặp và chứng mất trí nhớ thường là hội chứng lâm sàng chính.
- Thoái hóa vỏ não hạch nền thường có chứng run thô, cứng đờ, tăng phản xạ một bên cũng như thất dùng (apraxia)/loạn trương lực chi/hiện tượng chi lạ. Rối loạn này là rối loạn duy nhất thường có biểu hiện bất đối xứng như bệnh Parkinson.
- Liệt trên nhân tiến triển được đặc trưng bởi chứng liệt nhìn xuống trên nhân (không thể nhìn xuống chủ ý) và giật mắt sóng vuông (square wave jerks) khi kiểm tra vận động nhãn cầu. Những bệnh nhân này thường có tư thế thẳng đứng thay vì tư thế gập. Ngoài ra, thường xuyên bị ngã có thể là một phát hiện sớm. Run không phổ biến và có cảm xúc giả hành.
- Như đã đề cập, một số loại thuốc, đặc biệt là thuốc đối kháng dopamine (thuốc an thần kinh điển hình, thuốc chống buồn nôn) có thể gây ra hội chứng Parkinson do thuốc.
Các lựa chọn điều trị
Việc điều trị được bắt đầu khi chất lượng cuộc sống của bệnh nhân bị ảnh hưởng và thường bao gồm levodopa hoặc thuốc chủ vận dopamine. Vì hiện tại không có phương pháp điều trị nào có thể ngăn chặn quá trình thoái hóa, nên điều trị triệu chứng là phương pháp điều trị chính. Điều này bao gồm các can thiệp bằng thuốc và phẫu thuật. Các can thiệp thể chất như vận động, ngôn ngữ trị liệu và tập thể dục rất quan trọng và có tác động lớn đến cuộc sống của bệnh nhân mắc bệnh Parkinson.
Điều trị bằng thuốc
Các tác nhân dopaminergic là phương pháp điều trị chính cho các đặc điểm lâm sàng chính của bệnh Parkinson.
- Levodopa vượt qua hàng rào máu não, trong khi dopamine thì không; levodopa được chuyển đổi thành dopamine trong não. Sự phân hủy ngoại vi trong ruột bị ức chế bằng cách bổ sung chất ức chế en decarboxylase axit amin thơm (dichloro isoprenaline [DCI]), carbidopa. Do đó, công thức Carbidopa/Levodopa được kê đơn phổ biến. Levodopa cũng có thể bị phân hủy ngoại vi bởi enzyme catechol-O-methyltransferase (COMT) nên các chất ức chế COMT như entacapone và tolcapone thường được sử dụng. Một thử nghiệm điều trị bằng levodopa có thể xác nhận bệnh Parkinson vì hơn 90% bệnh nhân mắc bệnh Parkinson đã được chứng minh về mặt bệnh lý có đáp ứng tốt đến rất tốt với liều levodopa thích hợp (ít nhất 600 mg/ngày levodopa với DCI).
- Thuốc chủ vận dopamine vượt qua hàng rào máu não và hoạt động trực tiếp chủ yếu như các thụ thể loại D2 mà không cần chuyển đổi. Các tác nhân này bao gồm pramipexole, ropinirole và bromocriptine.
- Các chất ức chế MAO-B như selegiline và rasagiline có thể cải thiện các triệu chứng ở cả bệnh nhân mắc bệnh nhẹ (dùng đơn trị liệu) và bệnh nhân đang điều trị bằng levodopa.
- Thuốc kháng cholinergic như trihexyphenidyl (Artane) hoặc diphenhydramine (Benadryl) chủ yếu được sử dụng để chống run, nhưng có nhiều tác dụng phụ, đặc biệt là ở người lớn tuổi.
- Amantadine được cho là hoạt động chủ yếu bằng cách chặn các thụ thể glutamate N-methyl-Daspartate (NMDA) và có tác dụng làm giảm nhẹ các triệu chứng chính của chứng run khi nghỉ ngơi và loạn trương lực cơ. Gần đây, amantadine đã được chứng minh là giúp làm giảm chứng loạn động do levodopa gây ra.
Mặc dù không có phương pháp điều trị nào làm chậm quá trình thoái hóa của bệnh Parkinson, nhưng tỷ lệ tử vong do bệnh đã giảm nhờ liệu pháp levodopa. Dần dần, đáp ứng với levodopa trở nên không ổn định, dẫn đến dao động vận động, là những biểu hiện lâm sàng bị phóng đại; ngoài ra, bệnh nhân có thể xuất hiện các vận động dạng múa vờn và loạn trương lực bất thường không tự chủ được gọi là loạn động (dyskinesias). Có bằng chứng tốt cho thấy việc bắt đầu điều trị bằng chất chủ vận dopamine thay vì levodopa làm chậm sự khởi phát của loạn động. Do đó, những bệnh nhân có nguy cơ cao mắc chứng loạn động có thể nên được điều trị ban đầu bằng chất chủ vận dopamine.
Những bệnh nhân trẻ tuổi có nguy cơ mắc chứng loạn động cao hơn và có khả năng được điều trị trong thời gian dài (tuổi trung bình khởi phát bệnh Parkinson là khoảng 59 tuổi). Mặc dù levodopa là tác nhân hiệu quả nhất để điều trị bệnh Parkinson, nhưng đối với bệnh Parkinson nhẹ, chất chủ vận dopamine có lợi ích tương đương.
Ức chế/Kích thích não bằng phương tiện
Ở những bệnh nhân vẫn đáp ứng tốt với levodopa ngoại trừ các dao động vận động và loạn động, phương pháp điều trị phẫu thuật ức chế nhân dưới đồi bằng kích thích tần số cao có thể mang lại hiệu quả tuyệt vời, làm giảm các triệu chứng chính của bệnh. Tuy nhiên, việc đặt kích thích não sâu (DBS) có vẻ là liệu pháp phẫu thuật được ưa chuộng hơn. Nó ít xâm lấn hơn, có thể đảo ngược hơn và có thể được điều chỉnh cho từng bệnh nhân, và có thể có kết quả đáng kể. Ngoài ra, ức chế nhân bụng ngoài (ventrolateral nucleus) của đồi thị có thể rất hiệu quả trong điều trị run.
Câu hỏi hiểu bài
[1] Trong các dấu hiệu sau đây, dấu hiệu nào gợi ý nhiều nhất đến bệnh Parkinson hơn là các bệnh thoái hóa thần kinh khác?
A. Run một bên khi nghỉ
B. Liệt nhìn xuống nhân trên
C. Hạ huyết áp tư thế đứng trong giai đoạn đầu của bệnh
D. Ngã sớm
E. MRI não bất thường
[2] Trong các loại thuốc sau đây, loại nào có nhiều khả năng giúp làm giảm các triệu chứng chính của bệnh Parkinson cũng như làm giảm chứng loạn động do thuốc?
A. Levodopa
B. Thuốc chủ vận dopamine
C. Amantadine
D. Thuốc kháng cholinergic
E. Haloperidol
[3] Trong các loại thuốc sau đây, loại nào có nhiều khả năng gây ra bệnh Parkinson do thuốc?
A. Trihexyphenidyl
B. Metoclopramide
C. Diazepam
D. Carbidopa
E. Levodopa